Hiển thị các bài đăng có nhãn xét xử sơ thẩm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn xét xử sơ thẩm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

Tham luận về những vấn đề cần rút kinh nghiệm trong công tác xét xử sơ thẩm và phúc thẩm các vụ án dân sự qua công tác Giám đốc thẩm

I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH THỤ LÝ, GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
1. Thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm
Trong năm qua, Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý 199.361 vụ việc (gọi chung là vụ) dân sự và hôn nhân gia đình (không bao gồm các vụ việc kinh doanh, thương mại và lao động) và 18.761 vụ từ năm 2010 chuyển sang; tổng số các vụ mà Tòa án cấp sơ thẩm phải giải quyết là  218.122 vụ việc, tăng hơn 28.543 vụ so với năm 2010 (trong đó Tòa án cấp huyện phải giải quyết 211.536 vụ; Tòa án cấp tỉnh phải giải quyết theo thủ tục sơ thẩm 6.586 vụ).
Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết 196.769 vụ; trong đó Tòa án cấp huyện giải quyết được 192.408 vụ, đạt 90,96%, Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm 4.361 vụ việc, đạt 66,21%. Đặc biệt, Tòa án cấp sơ thẩm rất quan tâm công tác hòa giải, nên tỉ lệ hòa giải thành đạt trên 50% trong tổng số các vụ việc dân sự và hôn nhân và gia đình đã thụ lý. Đây là nỗ lực rất lớn của Tòa án cấp sơ thẩm (hầu hết các vụ này không phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để giải quyết lại). Tỉ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa năm nay giảm hơn cùng kỳ năm trước.
Tòa án cấp sơ thẩm đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền. Nhìn chung, các vụ án được đưa ra giải quyết trong thời hạn luật định. Thông qua kết quả hòa giải thành; tỉ lệ các bản án bị hủy, sửa và việc chấp hành pháp luật về thời hạn xét xử đã cho thấy chất lượng giải quyết các vụ việc dân sự và hôn nhân và gia đình theo trình tự sơ thẩm đã có tiến bộ và chuyển biến tích cực hơn năm trước.
Tuy nhiên, số vụ án dân sự (không bao gồm án hôn nhân và gia đình) mà Tòa án cấp tỉnh đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm chỉ đạt 46,2%. Đây là kết quả giải quyết thấp, nên cần làm rõ các nguyên nhân để có hướng khắc phục trong năm 2012.
2. Thụ lý, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm
Tòa án cấp phúc thẩm đã thụ lý 12.902 vụ dân sự và hôn nhân gia đình, cộng với 673 vụ từ năm 2010 chuyển sang, tổng số vụ phải giải quyết là 13.575 vụ (Tòa án cấp tỉnh phải giải quyết 13.042 vụ; còn các Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao phải giải quyết 533 vụ). Tòa án cấp phúc thẩm đã giải quyết 12.649 vụ (Tòa án cấp tỉnh giải quyết 12.197 vụ, đạt 93,52%; các Tòa Phúc thẩm giải quyết 452 vụ, đạt 84,8 %).
Nhìn chung, các Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về thời hạn xét xử. Các vụ án dân sự và hôn nhân và gia đình đã thụ lý được đưa ra xét xử trong thời hạn luật định; không có tồn đọng án ở các Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Chất lượng xét xử phúc thẩm đối với các vụ án dân sự và hôn nhân và gia đình cũng đã được nâng lên một bước.
3. Thụ lý, giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và thụ lý, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án dân sự và hôn nhân gia đình tại Tòa án nhân dân tối cao
Trong năm qua, Tòa án nhân dân tối cao nhận được tổng số 5.210 đơn (vụ) đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án án dân sự và hôn nhân gia đình đã có hiệu lực pháp luật (Tòa Dân sự nhận được 2.049 vụ; Cơ quan thường trực TANDTC tại phía Nam nhận được 2.142 vụ; Tòa Lao động nhận được 811 vụ; Tòa Hành chính nhận được 193 vụ; Tòa Kinh tế là 15); cộng với 4.047 đơn từ năm 2010 chuyển sang, tổng cộng số đơn mà Tòa án nhân dân tối cao phải giải quyết là 9.258 vụ.
Tòa án nhân dân tối cao đã giải quyết được 4.096 vụ (trong đó Tòa Dân sự giải quyết 2.490 đơn, Cơ quan thường trực Tòa án nhân dân tối cao tại phía Nam giải quyết 903 vụ; số còn lại do các Thẩm phán TANDTC tại Tòa Lao động, Tòa Hành chính và Tòa kinh tế giải quyết). Trong số các vụ đã được giải quyết, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị 996 vụ.
Tổng số các vụ án phải xét xử giám đốc thẩm là 1.187 vụ (trong đó, thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm của Tòa Dân sự là 986 vụ). Hội đồng Thẩm phán  và các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao đã xét xử  giám đốc thẩm 967 vụ, đạt 81,5% (Tòa Dân sự xét xử được 872 vụ).
Mặc dù các Tòa án nhân dân tối cao đã có nhiều cố gắng giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, nhưng số lượng đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án dân sự, hôn nhân và gia đình chưa được giải quyết vẫn còn nhiều.
Tóm lại: các Tòa án các sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã có nhiều cố gắng đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền; số lượng các vụ việc đã giải quyết tăng hơn năm 2010; chất lượng giải quyết các vụ việc dân sự và hôn nhân gia đình đã được nâng lên; bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự; tạo ra sự chuyển biến tích cực trong công tác giải quyết các vụ án dân sự nói chung trong toàn ngành.
Tuy nhiên, thông qua công tác giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa Dân sự nhận thấy trong công tác giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình theo thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm còn có các sai sót, cần được rút kinh nghiệm; như sau:
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM TRONG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
1. Về tố tụng
1.1. Vấn đề xác định tư cách đương sự và sự tham gia tố tụng của đương sự 
Tại Chương VI Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) đã quy định về người tham gia tố tụng, trong đó quy định rõ về nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; quyền và nghĩa vụ của đương sự. Hội đồng Thẩm phán cũng đã ban hành Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS, trong đó có hướng dẫn về người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều trường hợp có sai sót trong việc xác định tư cách đương sự và không đưa đầy đủ những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng. Những sai sót này đã được rút kinh nghiệm nhiều lần tại các Hội nghị Tổng kết công tác ngành hoặc tập huấn, nhưng vẫn hiệu quả vẫn còn hạn chế. Dưới đây, Tòa dân sự xin nêu một vài sai sót phổ biến; cụ thể:
1.1.1. Xác định không đúng tư cách của bị đơn
Tại khoản 3 Điều 56 BLTTDS quy định: “Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm”. Khoản 1 Điều 62 BLTTDS quy định: “Trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng”.
Như vậy, theo các quy định nêu trên thì bị đơn trước tiên phải là người đang còn sống tại thời điểm bị nguyên đơn khởi kiện. Nếu bị đơn chết mà quyền và nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì Tòa án phải xem xét để đưa những người thừa kế của họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng. Thực tế, có vụ án Tòa án đang giải quyết thì có đương sự chết, nhưng Tòa án vẫn xác định người đã chết là đương sự trong vụ án (nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), là không đúng. Dưới đây, Tòa dân sự xin nêu một trường hợp:
Ví dụ: vụ án “tranh chấp thừa kế và hủy hợp đồng tặng cho nhà” giữa nguyên đơn là ông Trương Trung Hiếu, bà Trương Thị Xuân Hương, ông Trương Ngọc Lễ với bị đơn là cụ Nguyễn Thị Tiết, bà Trương Thị Mỹ Lan, ông Nguyễn Hoàng Đức (Quyết định giám đốc thẩm số 29/DS-GĐT ngày 9/7/2010) cụ thể như sau:
Cụ Trương Văn Kiệm (chết năm 2002) và cụ Nguyễn Thị Tâm (chết năm 1998) chung sống có 3 con là ông Trương Trung Hiếu, bà Trương Thị Xuân Hương, ông Trương Ngọc Lễ. Khoảng năm 1949, cụ Kiệm chung sống với cụ Nguyễn Thị Tiết sinh được 12 người con.   Năm 1957, cụ Tâm không sống chung với cụ Kiệm nữa, mà cùng 3 con về sống tại tỉnh T. Năm 1972 cụ Kiệm mua căn nhà số 4, đường Phong Phú, thành phố H và sống cùng cụ Tiết cho đến khi chết. Ông Trương Trung Hiếu, bà Trương Thị Xuân Hương, ông Trương Ngọc Lễ khởi kiện cụ Nguyễn Thị Tiết, bà Trương Thị Mỹ Lan, ông Nguyễn Hoàng Đức tranh chấp ngôi nhà nêu trên.
Khi Tòa án cấp sơ thẩm đang giải quyết vụ án thì cụ Nguyễn Thị Tiết chết. Lẽ ra, Tòa án cấp sơ thẩm phải làm thủ tục để đưa những người thừa kế của cụ Tiết tham gia tố tụng với tư cách là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 62 BLTTDS, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xác định cụ Nguyễn Thị Tiết là bị đơn là sai.
1.1.2. Bỏ sót người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Theo quy định tại khoản 4 Điều 56 BLTTDS thì: “Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Trong trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào  tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.
Thực tế có nhiều trường hợp, Tòa án giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người nào đó, nhưng lại không đưa họ tham gia tố tụng, hoặc đưa không đầy đủ những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng. Thiếu sót này thường gặp ở các vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản; tranh chấp tài sản chung; tranh chấp quyền sử dụng đất mà đất đó đã được cơ quan Nhà nước cấp có thẩm quyền cấp cho hộ gia đình; đòi nhà cho thuê.v.v. Vì thế, sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, thì đương sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có đơn khiếu nại. Do đó, phải kháng nghị và xét xử giám đốc thẩm để giải quyết lại vụ án cho đúng pháp luật.
Ví dụ: Vụ án “Tranh chấp về thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn là bà Lê Thị Kim Trang, bà Lê Thị Kim Dung với bị đơn là ông Lê Minh Tâm (Quyết định giám đốc thẩm số 32/DS-GĐT ngày 16/8/2011); cụ thể như sau:
Các nguyên đơn tranh chấp 5.425 m2 đất với bị đơn là ông Lê Minh Tâm. Trên thực tế thì diện tích đất nêu trên ngày 18/12/2000 UBND tỉnh B đã cấp GCNQSD đất cho hộ ông Lê Minh Tâm. Tại thời điểm cấp GCNQSD đất thì hộ gia đình ông Lê Minh Tâm gồm ông Tâm, vợ ông Tâm và 2 con là Đàm Thị Ánh Hồng và chị Lê Ánh Nguyệt; hiện tại hộ ông Tâm đang quản lý, sử dụng 2 thửa đất trên. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không đưa những người trong hộ gia đình ông Lê Minh Tâm tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, là vi phạm nghiêm trọng tố tụng.
1.2. Trả lại đơn khởi kiện
a/ Trả lại đơn khởi kiện vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Trong thi gian qua, có mt s Tòa án địa phương đã th lý v án đòi  tr li giy chng nhn quyn s hu nhà; giy chng nhn quyn s dng đất; giđăng ký xe mô tô, xe máy; giy phép lái xe; giy chng minh nhân dân; h chiếu
Ví dụ: Vụ án tranh chấp đòi lại giấy tờ chủ quyền nhà giữa  nguyên đơn là bà Lương Thị Găng với bị đơn là anh Nguyễn Quang Chúc (Quyết định giám đốc thẩm số 16/DS-GĐT ngày 21/4/2011) cụ thể  như sau:  
Ngày 10/3/2006 bà Lương Thị Găng khởi kiện yêu cầu anh Nguyễn Quang Chúc (con của bà) hoàn trả cho bà giấy tờ bản chính của hai căn nhà (số 509 bis phố L và số 284-286 phố T) gồm: giấy phép hợp thức hóa quyền sở hữu nhà, giấy phép công nhận quyền sở hữu nhà, tờ khai chuyển dịch tài sản nộp thuế trước bạ. Anh Nguyễn Quang Chúc thừa nhận đang giữ giấy tờ nêu trên nhưng không đồng ý giao giấy tờ về quyền sở hữu nhà, đất cho bà Găng.
Như vậy, bà Lương Thị Găng chỉ yêu cầu Tòa án buộc anh Nguyễn Quang Chúc trả lại cho bà các giấy tờ liên quan đến quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, mà không tranh chấp về nhà, đất này. BLTTDS không quy định thẩm quyền của Tòa án giải quyết yêu cầu của đương sự đòi các loại giấy tờ do các Cơ quan hành chính Nhà nước cấp cho các đương sự như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở… Hơn nữa, pháp luật cũng không xác định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở là loại giấy tờ có giá. Theo quy định tại Điều 163 BLDS thì các loại giấy tờ nêu trên không phải là tài sản và không được phép giao dịch, trao đổi. Lẽ ra khi bà Găng có yêu cầu đòi lại giấy tờ nêu trên thì Tòa án cấp sơ thẩm phải giải thích cho bà Găng để bà yêu cầu các Cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục hành chính mới đúng. Tòa án cấp sơ thẩm buộc anh Chúc trả lại cho bà Găng các giấy tờ về hai căn nhà nêu trên là không đúng thẩm quyền. Tòa án cấp phúc thẩm y án sơ thẩm là sai.
Về vấn đề này, tại công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn “Thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản” theo hướng Tòa án không thụ lý, giải quyết các yêu cầu, tranh chấp đòi trả lại GCNQSD đất, GCNQSH nhà…
b/ Trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
Có trường hợp đã có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng sau đó đương sự khởi kiện lại và không thuộc trường hợp được  khởi kiện lại (các trường hợp được khởi kiện lại là: Tòa án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện). Lẽ ra, trường hợp này Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 168 BLTTDS, nhưng Tòa án vẫn thụ lý, giải quyết vụ án, là trái pháp luật.
Ví dụ: Vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Khoe, bà Cao Thị Kỵ với bị đơn là cụ Nguyễn Thị Thửa (Quyết định giám đốc thẩm số 12/DS-GĐT ngày 22/3/2011) cụ thể như sau:
Diện tích 2.894m2 đất (cụ Nguyễn Thị Thửa đã được cấp GCNQSD đất ngày 03-10-2000) hiện đang tranh chấp giữa ông Khoe, bà Kỵ với cụ Thửa đã được giải quyết tại bản án dân sự phúc thẩm số 670/DSPT ngày 14-4-2004 của Toà án nhân dân thành phố H, trong đó, Tòa án cấp phúc thẩm đã công nhận cụ Thửa có quyền sử dụng đất này (bản án phúc thẩm này không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, nên vẫn có hiệu lực pháp luật). Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã thụ lý, giải quyết lại vụ án là không đúng quy định của pháp luật.
1.3. Về thu thập chứng cứ
Theo quy định tại Điều 85 BLTTDS thì Toà án thu thập chứng cứ trong 2 trường hợp sau đây:
 - Trong trường hợp xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ.
- Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập chứng cứ như: lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; trưng cầu giám định; quyết định định giá tài sản; xem xét, thẩm định tại chỗ; uỷ thác thu thập chứng cứ; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự.
Việc lấy lời khai của đương sự, lấy lời khai của người làm chứng; đối chất; xem xét, thẩm định tại chỗ; trưng cầu giám định; định giá tài sản; uỷ thác thu thập chứng cứ; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ đã được quy định từ Điều 86 đến Điều 94 BLTTDS và được hướng dẫn tại phần IV Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
 Việc thu thập chứng cứ có ý nghĩa rất quan trọng và là cơ sở để Toà án giải quyết vụ án. Chỉ khi thu thập đầy đủ chứng cứ thì Toà án mới có đủ căn cứ để giải quyết vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều trường hợp Toà án giải quyết vụ án khi chưa thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ, dẫn đến giải quyết vụ án sai pháp luật.
Có trường hợp đương sự tranh chấp nhà đất có liên quan đến chính sách cải tạo, chính sách cải cách ruộng đất, liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà. Các cơ quan chuyên môn hoặc chính quyền địa phương đang lưu giữ những tài liệu, chứng cứ; các tài liệu, chứng cứ đó là cơ sở cho việc giải quyết vụ án, nhưng đương sự lại không thể tự mình thu thập được tài liệu, chứng cứ này. Lẽ ra, Tòa án phải giải thích để đương sự biết về quyền yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ. Nhiều trường hợp  đương sự không biết quyền của mình, nên không có yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Tòa án cũng không thu thập thêm tài liệu, chứng cứ, mà vẫn đưa vụ án ra xét xử, nên việc giải quyết vụ án là chưa có căn cứ, đương sự không đồng tình với phán quyết này của Tòa án.
Ví dụ: Vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là bà Lê Thị Kim Trang, bà Lê Thị Kim Dung với bị đơn là ông Lê Minh Tâm (Quyết định giám đốc thẩm số 32/DS-GĐT ngày 16//8/2010), tóm tắt như sau:
Vợ chồng cụ Lê Quang Phúc và cụ Vũ Thị Tiềm có 8 con chung là ông Lê Minh Khuê, Lê Thị Ngọc Lan, ông Lê Minh Chí, bà Lê Thị Kim Ngọc, bà Lê Thị Kim Trang, bà Lê Thị Kim Dung, ông Lê Minh Tâm và ông Lê Minh Khánh. 
Tháng 11/1975 cụ Phúc chết; năm 2003 cụ Tiềm chết. Cụ Phúc và cụ Tiềm có sử dụng 5.425 m2 đất thuộc thửa số 178 và thửa 851. Ngày 18/12/2000 hộ ông Lê Minh Tâm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Lẽ ra cần làm rõ khi ông Tâm kê khai xin cấp GCNQSD đất, thì những người thừa kế khác có biết hay không? Ý kiến của cụ Tiềm và những người thừa kế khác khi ông Tâm kê khai đất như thế nào; trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Tâm có đúng quy định của pháp luật hay không…Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ những vấn đề nêu trên, nhưng lại xác định diện tích đất trên thuộc quyền sử dụng của cụ Vũ Thị Tiềm là chưa đủ căn cứ.
1.4. Sửa chữa, bổ sung bản án
Theo quy định tại khoản 1 Điều 240 BLTTDS thì: “Sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai…”. Hội đồng Thẩm phán đã ban hành Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS, trong đó có hướng dẫn liên quan đến việc sửa chữa, bổ sung bản án.
Tuy nhiên, thực tế có trường hợp sau khi ban hành bản án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ban hành công văn thông báo việc sửa chữa, bổ sung bản án, nhưng lại quyết định thêm nội dung mới. Có trường hợp tuyên án không rõ ràng, khó khăn cho việc thi hành án; Thẩm phán ra nhiều công văn thông báo sửa chữa, bổ sung bản án hoặc giải thích bản án, nhưng việc thông báo, sửa chữa, bổ sung bản án không phù hợp với khoản 1 Điều 240 BLTTDS. Dưới đây, Tòa Dân sự xin nêu một ví dụ.
 Vụ án yêu cầu chia tài sản chung giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Khơi, bà Nguyễn Thị Quá, bà Lê Thị Ngọc Anh với bị đơn là bà Đặng Thị Hường; người liên quan là anh Đặng Văn Công, bà Lê Thị Lan, bà Lê Thị Kim Anh, bà Lê Thị Lương và anh Nguyễn Xuân Dự (Quyết định giám đốc thẩm số 16/DS-GĐT ngày 7/4/2010).
Tại bản án phúc thẩm số 270/2006/DSPT ngày 11/7/2006, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Khởi, Nguyễn Thị Quá, Lê Thị Ngọc Anh (đại diện theo ủy quyền là ông Đặng Chí Đức) về việc “yêu cầu chia tài sản chung là quyền sử dụng đất”.
- Xác định các thửa đất 767, 768, 769, 389, 391, 375, 376 tờ bản đồ 32 nay là thửa 04, 528, 449, 450, 472, 461 và 393 tờ bản đồ số 39 xã Hòa Long, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, có diện tích 7.811,1m­2 và có chiều ngang mặt tiền là 83 mét (theo sơ đồ vị trí do Phòng tài nguyên và môi trường thị xã Bà Rịa lập ngày 9/12/2005) là tài sản chung của các ông bà Nguyễn Thị Khơi, Nguyễn Thị Quá, Lê Thị Ngọc Anh, Lê Thị Lan, Đặng Thị Hường, và Đặng Văn Công, Đặng Văn Lợi).
2. Kiến nghị với UBND thị xã Bà Rịa thu hồi GCNQSD đất số T837939 ngày 12/12/2001 đã cấp cho bà Lê Thị Kim Anh và số T838940 đã cấp cho ông Nguyễn Xuân Dự; và số T7227679 ngày 24/9/2001 đã cấp cho bà Đặng Thị Hường đối với các thửa số 375 (số mới 450), 376 (số mới 472).
- Giao cho anh Đặng Chí Đức đại diện cho bà Khơi, bà Quá, bà Anh, bà Lan và anh Công nhận các thửa đất ruộng số 449, 528, 04, 450, và 472 theo tờ bản đồ số 39, xã Hòa Long và có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
- Bà Đặng Thị Hường được nhận thửa số 393 và 461 tờ bản đồ số 39 xã Hòa Long( Hai thửa này đã bán cho bà Nguyễn Thị Thái Hằng và Phạm Thị Thật).
3. Dành quyền khởi kiện cho ông và Lên Thị Lương, Lê Thị Kim Anh, Nguyễn Xuân Dự đối với bà Đặng Thị Hường về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nếu có yêu cầu.
Ngày 01-8-2006, Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa phúc thẩm ban hành Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án như sau:
“Tại trang 1 dòng 1, 2 tính từ dưới lên ghi: Ông Đặng Chí Đức, sinh năm 1964; trú tại 1596 đường 3-4. Nay được sửa chữa như sau: Ông Đặng Chí Đức, sinh năm 1960, trú tại: 1596 đường 30-4.
Tại trang 2 dưới dòng 8 tính từ trên xuống bổ xung thêm: Bà Lê Thị Lan, sinh năm 1930 hiện trú tại Đức; ủy quyền cho bà Lê Thị Ngọc Anh.
Tại trang 8 dòng 6 tính từ dưới lên ghi:“ Hội đồng xét xử kiến nghị với Ủy ban nhân dân thị xã Bà Rịa thu hồi các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…” Nay được sửa chữa như sau: “Hội đồng xét xử thấy cần hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và kiến nghị với Ủy ban nhân dân thị xã Bà Rịa thu hồi các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…”
Và tại trang 10 dòng 1 tính từ trên xuống ghi: Kiến nghị Ủy ban nhân dân thị xã Bà Rịa thu hồi các giấy phép số: t838940 ngày 12-12-2001 đã cấp cho ông Nguyễn Xuân Dự, và số T27679 ngày 24-9-2001 đã cấp cho bà Đặng Thị Hường.
Nay được bổ sung, sửa chữa như sau: “2. Hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Đặng Thị Hường và các ông bà Nguyễn Xuân Dự, Lê Thị Lương, Lê Thị Kim Anh. Kiến nghị với Ủy ban nhân dân thị xã Bà Rịa thu hồi các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 837940 ngày 12-12-2001 đã cấp cho ông Nguyễn Xuân Dự, và số T27679 ngày 24-9-2001 đã cấp cho bà Đặng Thị Hường.
Như vậy, thông báo sửa chữa bổ sung bản án nêu trên vi phạm nghiêm trọng khoản 1 Điều 240 BLTTDS.
2. Về nội dung
2.1. Giải quyết hậu quả hợp đồng chuyển nhượng quyền sử đất vô hiệu
Trong nhiều trường hợp Tòa án xác định hợp đồng vô hiệu là đúng pháp luật, nhưng giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu không đúng; cụ thể: có trường hợp Tòa án không tổ chức định giá theo quy định để xác định thiệt hại và mức độ lỗi của các bên, mà chỉ buộc các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận. Có trường hợp Tòa án căn cứ vào khung giá đất của Ủy ban nhân dân, mà không căn cứ vào giá đất theo thị trường ở địa phương tại thời điểm xét xử sơ thẩm để giải quyết vụ án; có trường hợp vụ án đã được xét xử nhiều lần, trong khi giá đất có biến động tăng cao hơn trước, nhưng khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn căn cứ vào kết quả định giá trước đây làm căn cứ giải quyết vụ án, là chưa phù hợp với thực tế và chưa đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự. Có trường hợp Tòa án căn cứ vào giá đất do cơ quan tài chính vật giá ở địa phương hoặc giá đất do cán bộ làm công tác địa chính ở cấp xã cung cấp để làm căn cứ giải quyết vụ án cũng không đúng. Một số trường hợp Tòa án xác định hợp đồng vô hiệu, nhưng lại không giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu trong cùng vụ án (buộc giao nhà đất, nhưng không giải quyết hậu quả hợp đồng mua bán nhà đất vô hiệu).
Ví dụ: Ngày 20/5/2002, ông Phan Thành Phước được UBND tỉnh K cấp GCNQSH nhà đất số 349 Mạc Cửu, phường Vĩnh Thanh, thành phố R, tỉnh K. Ngày 12/1/2003 bà Nguyễn Thị Lệ Em (vợ ông Phước) bán ngôi nhà trên cho vợ chồng ông Lâm Bửu Lợi và bà Lương Thị Thu Hồng với giá 300.000.000đ; bà Em đã nhận 100.000.000đồng; bà Em đã ký giả chữ ký của ông Phước. Ngày 29/01/2003, bà Hồng được sang tên nhà đất nêu trên. Ông Phước, bà Em yêu cầu hủy hợp đồng; vợ chồng ông Lợi, bà Hồng yêu cầu công nhận hợp đồng.
Tại bản án sơ thẩm số 62/2006/DSST ngày 7/7/2006, TAND thành phố R đã hủy hợp đồng chuyển nhượng nhà đất; buộc bà Em trả cho vợ chồng ông Lâm Bửu Lợi và bà Lương Thị Thu Hồng 100.000.000đ. Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu của các đương sự giải quyết thành vụ án khác khi có yêu cầu. Bản án phúc thẩm số 208/DSPT ngày 20/7/2007 của TAND tỉnh K đã giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bản án phúc thẩm nêu trên đã bị kháng nghị và Tòa Dân sự TANDTC đã hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm (Quyết định giám đốc thẩm số 733/2010/DSGĐT ngày 27/10/2010  của Tòa Dân sự TANDTC).
2.2. Về giải quyết các vụ án có liên quan đến nhà đất đã được mua bán sau khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc thông qua bán đấu giá tài sản
Tại Điều 258 BLDS đã quy định: “Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa”.
Trên thực tế, có trường hợp, người được sở hữu nhà đất theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đã bán nhà đất cho người khác (hợp đồng mua bán nhà đất đúng quy định của pháp luật), nhưng sau đó bản án, quyết định này bị hủy để giải quyết lại. Lẽ ra khi giải quyết lại vụ án, Tòa án phải xác định số tiền đã chuyển nhượng nhà đất nói trên là giá trị của tài sản tranh chấp để làm căn cứ giải quyết vụ án, nhưng có Tòa án lại tổ chức định giá nhà đất để làm căn cứ giải quyết vụ án, là sai
(Vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là bà Vũ Kim Dung với bị đơn là ông Vũ Bá Ngọc; Quyết định giám đốc thẩm số 03/DS-GĐT ngày 23/2/2011).
2.3. Về phạm vi áp dụng Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH 11 ngày 27/7/2006
Theo Điều 1 Nghị quyết số 1037 thì “Nghị quyết này được áp dụng để giải quyết các giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia..”. Như vậy, giao dịch dân sự về nhà ở nói trên phải được xác lập trước ngày 01-7-1991 và phải có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia từ trước ngày 01-7-1991.
Tuy nhiên, thực tế có trường hợp không nhận thức đúng phạm vi áp dụng của Nghị quyết 1037 và phạm vi áp dụng Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20-8-1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01-7-1991”, nên việc áp dụng Nghị quyết 1037 và Nghị quyết 58 nêu trên khi giải quyết vụ án còn một số sai sót.
Ví dụ: Vụ án tranh chấp thừa kế tài sản có nguyên đơn là anh Nguyễn Quang Phúc với bị đơn là anh Nguyễn Đình Huệ; có 14 người liên quan; có nội dung tóm tắt như sau:
Cụ Nguyễn Trạng (chết năm 1982) và cụ Huỳnh Thị Đương (chết năm 1949) có 6 con chung gồm các ông, bà: Nguyễn Thám (chết năm 1975, có 9 con trong đó có anh Nguyễn Quang Phúc), Nguyễn Nhu, Nguyễn Thị Hòe, Nguyễn Thị Muồn, Nguyễn Nghệ và Nguyễn Thị Liễu (định cư ở Mỹ). Sau khi cụ Đương chết, cụ Trạng kết hôn với cụ Nguyễn Thị Mến (chết năm 1983) và có 2 con chung là anh Nguyễn Đình Huệ và anh Nguyễn Mười. Cụ Trạng, cụ Đương và cụ Mến có tài sản là ngôi nhà ngói 3 gian trên diện tích 1.200 m2 đất tại tỉnh Q do anh Nguyễn Đình Huệ quản lý, sử dụng.
Ngày 18/7/2007, anh Nguyễn Quang Phúc có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản. Do cụ Trạng, cụ Đương và cụ Mến chết trước ngày 1/7/1991 và để lại tài sản thừa kế (nhà đất), lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải thu thập chứng cứ làm rõ bà Nguyễn Thị Liễu định cư ở nước ngoài trước hay sau ngày 01/7/1991 thì mới có cơ sở áp dụng Nghị quyết 1037 hay Nghị quyết 58, để giải quyết vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ những vấn đề nêu trên, nhưng lại xác định nguyên đơn khởi kiện vẫn còn thời hiệu để từ đó thụ lý, giải quyết vụ án là chưa có cơ sở. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra vấn đề này mà vẫn giải quyết vụ án là chưa đủ căn cứ.
(Quyết định giám đốc thẩm số 05/2010/DS-GĐT ngày 3/3/2010 đã hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại)
Về vấn đề này, tại Công văn số 91/TANDTC-KHXX ngày 28-6-2011 Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn việc áp dụng Nghị quyết số 1037.
3. Nguyên nhân cơ bản của tồn tại, thiếu sót
3.1. Nguyên nhân khách quan: số lượng các vụ việc dân sự và hôn nhân và gia đình mà các Tòa án đã thụ lý, giải quyết là rất lớn và tăng hơn năm trước; tính chất công việc phức tạp. Trong khi đó, số lượng cán bộ, Thẩm phán tại nhiều đơn vị trong ngành còn thiếu, một bộ phận còn yếu về trình độ năng lực. Một số văn bản quy phạm pháp luật chưa rõ ràng, nhưng các cơ quan có thẩm quyền chưa hướng dẫn kịp thời, làm cho việc giải quyết nhiều vụ án có  khó khăn và trong một số trường hợp có sai sót.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
Trong nhiều trường hợp đã có quy định của pháp luật và đã có văn bản hướng dẫn thi hành, nhưng một số Thẩm phán chưa nghiên cứu kỹ, cập nhật, dẫn đến áp dụng sai pháp luật khi giải quyết vụ án.
- Tinh thần trách nhiệm và ý thức của một bộ phận cán bộ, công chức trong ngành chưa cao. Có những sai sót trong chuyên môn đã được rút kinh nghiệm, tập huấn, nhắc nhở, nhưng vẫn còn vi phạm, làm hạn chế chất lượng công tác.
C. Một số kiến nghị về giải pháp để nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình
Để nâng cao chất lượng xét xử, giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình theo thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm, cần có nhiều giải pháp đồng bộ, Tòa Dân sự xin kiến nghị một số giải pháp chủ yếu như sau:
- Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ: Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật khi giải quyết các loại vụ án nói chung, trong đó có các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình. Kịp thời hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, để tháo gỡ các vướng mắc trong thực tiễn xét xử, giải quyết các vụ việc dân sự nói chung. Tăng cường hơn nữa công tác tập huấn các văn bản quy phạm pháp luật mới có liên quan đến công tác xét xử án dân sự, hôn nhân và gia đình. Tổ chức các Đoàn công tác để rút kinh nghiệm về những sai sót mà Tòa án các địa phương thường gặp. Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án các cấp để nâng cao khả năng hoàn thành nhiệm vụ.
- Giải pháp về tổ chức, quản lý: bổ sung kịp thời số cán bộ, Thẩm phán còn thiếu cho các đơn vị trong toàn ngành, tránh hiện tượng quá tải trong công việc ở một số Tòa án địa phương như hiện nay. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị. Đối với các đơn vị có kết quả công tác chưa cao thì cần làm rõ các nguyên nhân; xác định trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu đơn vị. Tăng cường tinh thần trách nhiệm của từng cán bộ, Thẩm phán trong công tác. Nâng cao hơn nữa kỷ luật công vụ.
- Giải pháp về bảo đảm cơ sở vật chất và quan tâm hơn nữa về chế độ, chính sách cho cán bộ làm công tác Tòa án, trong đó cần đảm bảo trang thiết bị, máy móc phục vụ cho cán bộ, Thẩm phán làm việc; kịp thời sửa chữa, thay mới các thiết bị đã hư hỏng hoặc quá lạc hậu. Quan tâm hơn nữa về chế độ, chính sách đối với cán bộ, Thẩm phán trong toàn ngành, đặc biệt là cán bộ, Thẩm phán cấp huyện, vùng sâu, vùng xa, dân tộc, miền núi, hải đảo.
D. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Khi đã hết thời hiệu yêu cầu chia thừa kế tài sản, đương sự khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung
Trong thời gian qua, nhiều trường hợp đương sự khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung (khi đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế). Có trường hợp kèm theo đơn khởi kiện, đương sự gửi kèm theo tài liệu chứng minh tài sản đang tranh chấp là tài sản chung và yêu cầu chia; có trường hợp đương sự gửi văn bản của đồng thừa kế xác nhận di sản của người chết để lại chưa chia và yêu cầu chia tài sản chung. Cũng có trường hợp đương sự khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung, nhưng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của họ.
Đối với trường hợp đơn khởi kiện kèm theo tài liệu chứng minh tài sản đang tranh chấp là tài sản chung hoặc văn bản của đồng thừa kế xác nhận di sản của người chết để lại chưa chia và yêu cầu chia tài sản chung, thì Tòa án đều nhận đơn khởi kiện và thụ lý vụ án để xem xét, giải quyết vụ án theo quy định chung (Vấn đề này không có vướng mắc).
Trường hợp đương sự khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung, nhưng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của họ thì có Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý, giải quyết vụ án; có Tòa án  không thụ lý vụ án. Trường hợp đã thụ lý vụ án thì cách giải quyết vụ án cũng không thống nhất (có Tòa án bác yêu cầu của đương sự; có Tòa án lại đình chỉ giải quyết vụ án với lý do chưa đủ điều kiện khởi kiện).
Về vấn đề này, Tòa Dân sự có ý kiến như sau: Theo quy định tại Điều 165 BLTTDS và hướng dẫn tại tiểu mục 5 mục I Nghị quyết số 02/2006/HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán thì về nguyên tắc khi gửi đơn khởi kiện cho Tòa án, người khởi kiện phải gửi kèm theo tài liệu, chứng cứ để chứng minh họ là người có quyền khởi kiện và yêu cầu của họ có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy, trường hợp đương sự khởi kiện nhưng chưa có tài liệu chứng minh tài sản đang tranh chấp là tài sản chung hoặc văn bản của đồng thừa kế xác nhận di sản của người chết để lại chưa chia, thì Tòa án ấn định cho đương sự một thời gian nhất định (không quá 30 ngày theo quy định tại Điều 169 BLTTDS) để đương sự bổ sung tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu chia tài sản chung. Nếu hết thời hạn nêu trên, mà đương sự không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho đương sự (văn bản trả lại đơn khởi kiện cần nêu rõ lý do là chưa đủ điều kiện khởi kiện).
(Để áp dụng pháp luật được thống nhất, đề nghị có hướng dẫn trường hợp nêu trên).
2. Cha mẹ đã cho vợ chồng người con quyền sử dụng đất
Thực tế, có trường hợp khi người con lập gia đình, cha mẹ (bên vợ hoặc bên chồng) đã giao cho vợ chồng người con một phần đất; có trường hợp cha mẹ còn cho vợ chồng người con vật liệu xây dựng hoặc tiền để xây dựng nhà trên đất. Việc cho đất nói trên thường không lập giấy tờ (trong một số trường hợp có lập giấy tờ nhưng chưa đúng thủ tục do pháp luật quy định). Nếu như vợ chồng người con không ly hôn thì cha mẹ đòi lại quyền sử dụng đất là không nhiều, nhưng nếu vợ chồng ly hôn thì tranh chấp quyền sử dụng đất xảy ra tương đối nhiều (nhiều vụ rất gay gắt).
Vậy trường hợp nào được coi là cha mẹ đã cho vợ chồng người con quyền sử dụng đất, trường hợp nào thì chưa cho. Khi giải quyết tranh chấp này, Tòa án các cấp đã gặp khó khăn, lúng túng vì chưa có hướng dẫn của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nên dẫn tới việc giải quyết vụ án có khác nhau.
Tại Điều 467 BLDS năm 2005 quy định về tặng cho bất động sản như sau:
“1- Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.
2- Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản”.
Thực tiễn cho thấy việc tặng cho quyền sử dụng đất giữa cha mẹ và vợ chồng người con còn có trường hợp chưa thể đáp ứng được các yêu cầu nêu trên của pháp luật vì nhiều nguyên nhân khác nhau (có thể do trình độ hiểu biết pháp luật của một bộ phận nhân dân ta còn hạn chế; có thể do thủ tục chứng thực, đăng ký bất động sản chưa được thuận tiện; có thể họ là những người thân thích trong gia đình, nên đã không làm thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất theo đúng quy định...). Để giải quyết các vụ việc liên quan đến tặng cho quyền sử dụng đất cha mẹ và vợ chồng người con có lý, có tình thì phải xem xét toàn diện cả về pháp luật và thực tiễn; từ thực tiễn xét xử và giải quyết các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa Dân sự nhận thấy các trường hợp sau đây cần được xác định là cha mẹ đã cho vợ chồng người con đất, cụ thể:
 (1) Cha mẹ đã giao đất cho vợ chồng người con sử dụng ổn định. Vợ chồng người con đã kê khai, đăng ký và được cấp GCNQSD đất; cha mẹ biết việc kê khai, đăng ký và cấp GCNQSD đất, nhưng không có ý kiến phản đối. Cha mẹ chỉ kê khai, đăng ký các thửa đất khác; không đăng ký thửa đất đã giao cho vợ chồng người con sử dụng.
(2) Cha mẹ đã viết giấy cho vợ chồng người con quyền sử dụng đất. Vợ chồng người con đã trực tiếp sử dụng đất; đóng thuế sử dụng đất; kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất. Khi vợ chồng thực hiện việc đóng thuế, kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất thì cha mẹ không có ý kiến phản đối.
(3) Cha mẹ đã viết giấy cho vợ chồng người con quyền sử dụng đất. Vợ chồng người con đã làm nhà ở ổn định, trồng hoa màu, cây trái trên đất và phần đất này có khuôn viên riêng biệt.
(4) Cha mẹ đã thừa nhận trước kia đã cho vợ chồng người con quyền sử dụng đất và vợ chồng người con đã sử dụng ổn định (xây dựng nhà ở, trồng cây trái...); nhưng do vợ chồng người con ly hôn, nên cha mẹ đòi lại.
3. Về xử lý số tiền còn thiếu mà bên mua chưa trả cho bên bán trong hợp đồng mua bán nhà hoặc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất:
Thời gian qua, Tòa án các cấp đã xét xử nhiều vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bên mua đã được cấp GCNQSH nhà và GCNQSD đất, nhưng chưa thanh toán đủ số tiền mua nhà đất. Thực tế, các Tòa án đã giải quyết không thống nhất: có Tòa án áp dụng Điều 313 BLDS năm 1995 (Điều 305 BLDS 2005) để buộc bên mua trả cho bên bán số tiền còn thiếu và lãi suất theo quy định; có Tòa án lại định giá nhà đất theo giá thị trường khi xét xử sơ thẩm, để từ đó buộc bên mua trả cho bên bán số tiền còn thiếu tương ứng với phần giá trị nhà đất mà bên mua chưa thanh toán; có Tòa án lại cho rằng việc chưa trả hết tiền là vi phạm hợp đồng, nên đã hủy hợp đồng mua bán nhà đất và giải quyết hậu quả của hợp đồng bị hủy.
Tòa Dân sự thấy rằng trong trường hợp hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp; chỉ còn việc chưa thanh toán hết số tiền chuyển nhượng (vì các nguyên nhân khác nhau) thì cần công nhận hợp đồng. Đối với số tiền chưa thanh toán thì xử lý như sau:
- Trường hợp bên mua trả tiền theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng bên bán không nhận (việc chưa thanh toán tiền xong là do lỗi của bên bán) thì chỉ buộc bên mua trả cho bên bán số tiền còn thiếu cộng với lãi suất theo quy định.
- Trường hợp bên mua không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả tiền còn thiếu theo hợp đồng, thì bên mua có lỗi. Trường hợp này, Tòa án phải tổ chức định giá nhà đất để từ đó buộc bên mua thanh toán cho bên bán số tiền còn thiếu tương ứng với phần giá trị nhà đất mà bên mua chưa thanh toán.
Trên đây là Tham luận của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn: Tòa dân sự - TAND tối cao

Thứ Năm, 1 tháng 11, 2012

Phương hướng hoàn thiện các quy định của bộ luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự


Xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) do Toà án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo Luật tổ chức Toà án nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm ở Việt Nam là các Toà án cấp huyện, Toà án cấp tỉnh, Toà án quân sự khu vực, Toà án quân sự cấp quân khu.
Theo pháp luật tố tụng Việt Nam hiện hành, thì xét xử sơ thẩm được xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, truy tố thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một cách công khai tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận, chất vấn những điều mà tại Cơ quan điều tra họ không có điều kiện thực hiện. Xét xử sơ thẩm được coi như là đỉnh cao cửa quyền tư pháp, tại phiên toà quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai, đầy đủ nhất; những lo âu của bị cáo, người bị hại và của những người tham gia tố tụng khác được giải toả tại phiên toà. Tâm lý nói chung đối với những người tham gia tố tụng là mong muốn vụ án nhanh được đưa ra xét xử để họ biết được Toà án sẽ phán quyết như thế nào.
Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi hỏi những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ, xử lý các tình huống một cách mau lẹ, các lý lẽ đưa ra không chỉ đòi hỏi sự chính xác mà phải có sức thuyết phục, nhưng đồng thời lại phải tuân theo những quy định của pháp luật. Thông qua phiên toà có thể đánh giá được trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán, của Hội thẩm, của Kiểm sát viên, của Luật sư và những người tham gia tố tụng tố tụng khác. Cũng thông qua phiên toà mà Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Luật sư nâng cao được trình độ nghiệp vụ năng lực công tác và kỹ năng nghề nghiệp; thông qua phiên toà, những người dự phiên toà hiểu biết thêm về pháp luật, củng cố thêm lòng tin vào Toà án. Vì vậy, việc tổ chức phiên toà sơ thẩm tốt có tác dụng to lớn không chỉ đối với một vụ án cụ thể mà còn có tác dụng đối với việc nâng cao ý thức pháp luật cho mọi công dân.
I - NHỮNG VƯỚNG MẮC VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003
1. Về thẩm quyền
Theo quy định của pháp luật thì Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự cấp quân khu (gọi chung là Toà án cấp tỉnh) xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng hình sự không có quy định trường hợp nào không thuộc thẩm quyền mà lại lấy nên để xét xử dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, có vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp huyện nhưng ngay từ khi khởi tố vụ án đã do Cơ quan điều tra cấp tỉnh thực hiện nên đến khi kết thúc điều tra, lập cáo trạng đều do cấp tỉnh và mặc nhiên Toà án cấp tỉnh thụ lý xét xử sơ thẩm.Việc Toà án cấp tỉnh thụ lý xét xử không đúng thẩm quyền lại được giải thích rằng, có trường hợp đã truy tố ở cấp huyện mà Toà án cấp tỉnh còn có quyền lấy nên để xét xử huống chi vụ án này do Cơ quan điều tra cấp tỉnh khởi tố, kết luận điều tra, Viện kiểm sát cấp tỉnh truy tố ra Toà án cấp tỉnh thì không có lý do gì Toà án cấp tỉnh lại từ chối xét xử. Lý giải như vậy, rõ ràng là không thuyết phục, lấy nên để xét xử khác với thẩm quyền xét xử.
Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý và những người tuy không thuộc các đối tượng trên nhưng hành vi phạm tội của họ có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.
Thực tiễn xét xử, thường xảy ra tranh chấp giữa Toà án quân sự với Toà án nhân dân trong trường hợp dân thường phạm tội mà hành vi của họ có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Bí mật quân sự đã có quy định nhưng “gây thiệt hại cho quân đội” bao gồm những thiệt hại nào thì chưa có quy định.
Đối với những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự nhưng bản án không chỉ có các quyết định về hình sự mà còn có cả các quyết định về dân sự. Nếu phần dân sự trong vụ án hình sự bị Toà án cấp phúc thẩm hoặc Toà án cấp giám đốc thẩm huỷ để giải quyết lại, nếu đúng theo quy định của pháp luật thì Toà án quân sự không có thẩm quyền xét xử lại phần dân sự trong vụ án hình sự đó nữa mà phải thuộc Toà án nhân dân. Tuy nhiên, nếu giao cho Toà án nhân dân giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự mà vụ án hình sự đó lại do Toà án quân sự đã xét xử thì không phù hợp, việc chuyển giao hồ sơ vụ án cũng rất phức tạp. Để khắc phục tình trạng này, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lại hướng dẫn, nếu phần dân sự trong vụ án hình sự bị huỷ để giải quyết lại thì dù vụ án đó do Toà án nhân dân xét xử hay Toà án quân sự xét xử thì bản án xét xử lại phần dân sự trong vụ án hình sự vẫn là “bản án hình sự”, trong khi đó những người tham gia tố tụng tố tụng được ghi trong bản án không phải là bị cáo, người bị hại, mà là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự dân sự.
Theo quy định của pháp luật thì Toà án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Toà án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Toà án có thẩm quyền xét xử là Toà án nơi kết thúc việc điều tra.
Hiện nay có nhiều trường hợp tội phạm được thực hiện ở một nơi hoặc nhiều nơi nhưng không do Cơ quan điều tra địa phương khởi tố, kết thúc điều tra, mà do Cơ quan điều tra Bộ Công an khởi tố, kết thúc điều tra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ra bản cáo trạng và uỷ quyền cho Viện kiểm sát địa phương nơi Toà án có thẩm quyền xét xử vụ án tham gia phiên toà sơ thẩm để bảo vệ bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đây cũng là vấn đề thực tiễn xét xử gặp nhiều vướng mắc, nhất là đối với Kiểm sát viên tham gia phiên toà; nhiều trường hợp không bảo vệ được cáo trạng vì không có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 3 Điều 166 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Toà án. Nếu bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì chỉ có 3 ngày, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án đó, Kiểm sát viên được uỷ quyền tham gia phiên toà không có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án, nhiều vụ án, do không có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án, nên tại phiên toà Kiểm sát viên lúng túng không chỉ khi xét hỏi mà khi luận tội cũng như tranh luận với người bào chữa gặp rất nhiều khó khăn; có trường hợp Kiểm sát viên phải đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì, khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền mình thì Toà án chuyển vụ án cho Toà án có thẩm quyền xét xử, Việc chuyển vụ án cho Toà án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính tương đương hoặc ngoài phạm vi quân khu do Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự cấp quân khu quyết định. Chỉ được chuyển vụ án cho Toà án khác khi vụ án chưa được xét xử. Trường hợp này, việc chuyển vụ án do Chánh án Toà án quyết định.
Nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự hoặc Toà án cấp trên thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho Toà án có thẩm quyền. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Hội đồng xét xử quyết định. Việc chuyển vụ án phải được thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử do Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp quyết định; việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Toà án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, do Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi kết thúc việc điều tra quyết định; việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Toà án nhân dân và Toà án quân sự do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền, chỉ do Chánh án Toà án quyết định. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử vấn đề tranh chấp về thẩm quyền không chỉ xảy ra giữa các Toà án với nhau mà còn xảy ra giữa Toà án với Viện kiểm sát nhưng Bộ luật tố tụng hình sự không có quy định ai chịu trách nhiệm giải quyết. Ví dụ: Toà án A thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án mình nên chuyển cho Toà án B có thẩm quyền để xét xử, Toà án B tiếp nhận vụ án cũng thấy vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án mình, nhưng Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án B không đồng ý, nên không thay đổi Bản cáo trạng truy tố bị cáo ra Toà án B. Nhiều trường hợp do không có sự thống nhất giữa Viện kiểm sát và Toà án nên vụ án phải trả về Toà án không có thẩm quyền xét xử để xét xử vụ án đó không đúng thẩm quyền (biết sai mà không khắc phục được).
2. Về giới hạn của việc xét xử
Theo quy định tại Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự thì, khi xét xử sơ thẩm Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử.
Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát  truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Nếu theo quy định này, thì Toà án không được xét xử bị cáo về tội năng hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Ví dụ: Viện kiểm sát truy tố bị cáo A về tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự nhưng Toà án thấy bị cáo A phạm tội giết người theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự, nên đã trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung (thực chất là để truy tố lại), nhưng Viện kiểm sát không nhất trí với ý kiến của Toà án. Do đó, buộc Toà án phải dưa vụ án ra xét xử, kết quả xét hỏi, tranh luật tại phiên toà cả Kiểm sát viên và Hội đồng xét xử đều thấy bị cáo phạm tội giết người chứ không phải tội cố ý gây thương tích nhưng lại không cho Toà án xét xử bị cáo A về tội giết người. Đây là vấn đề đã nhiều lần được thảo luận trong các hội thảo khoa học, trên các tạp chí chuyên ngành, trong quá trình soạn thảo Bộ luật tố tụng hình sự và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật tố tụng hình sự nhưng cho đến nay vẫn chưa có giải pháp khắc phục.
3. Về người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng 
a).  Về người tiến hành tố tụng
Khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam những người tham gia phiên toà được chia thành hai loại gồm: người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
 Người tiến hành tố tụng gồm có: Chánh án, Phó chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký Toà án và Kiểm sát viên.
Người tham gia tố tụng gồm có: Bị cáo; người bào chữa; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người bảo vệ quyền lợi của đương sự; người làm chứng; người giám định; người phiên dịch.
Trong số những người tiến hành tố tụng thì Chánh án, Phó chánh án Toà án là chức danh quản lý theo luật tổ chức, đồng thời là người đại diện cơ quan tiến hành tố tụng và là người tiến hành tố tụng. Là người đại diện cơ quan tiến hành tố tụng, nhưng Bộ luật tố tụng hình sự lại không quy định rõ ràng quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của Chánh án, Phó chánh án Toà án với tư cách là người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng khác với tư cách người tiến hành tố tụng như thế nào, mà chỉ quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án Toà án (Điều 38 BLTTHS). Nội dung của Điều 38 Bộ luật tố tụng hình sự chủ yếu quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm đối với người tiến hành tố tụng. Do đó trong thực tiễn xét xử khó có thể phân biệt khi nào Chánh án, Phó Chánh án Toà án thực hiện nhiệm vụ với tư cách là người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng, khi nào với tư cách người tiến hành tố tụng. Ví dụ: Chánh án quyết định tạm giam bị cáo thì việc ra quyết định tạm giam là với tư cách người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng hay với tư cách người tiến hành tố tụng. Việc khiếu nại quyết định này của Chánh án sẽ được giải quyết như thế nào, nếu có căn cứ Chánh án ra quyết định tạm giam đối với bị cáo là không vô tư ? Trường hợp Chánh án trực tiếp xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thì thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm theo Điều 39 hay cả Điều 38 Bộ luật hình sự, ai là người phân công cho Chánh án xét xử vụ án hình sự ?
Đối với Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, được giao nhiều quyền, trừ quyền ra quyết định thay đổi biện pháp tạm giam. Đây cũng là vấn đề cần xem xét lại, vì việc quy định cho Chánh án, Phó Chánh án mới là người có quyền này chủ yếu là đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng nhưng lại không phù hợp với thực tiễn xét xử, vì Thẩm phán mới là người nghiên cứu hồ sơ vụ án, mới biết được bị cáo có cần phải áp dụng hoặc thay đổi biện pháp tạm giam hay không. Giả thiết, Thẩm phán đề xuất với Chánh án cần phải thay đổi biện pháp tạm giam cho bị cáo nhưng Chánh án không đồng ý thì Thẩm phán có quyền khiếu nại quyết định của Chánh án hay không, trong khi đó Thẩm phán có quyền quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, còn tại phiên toà thì Thẩm phán còn có quyền bắt giam hoặc tha bị cáo.
Thẩm phán không có quyền cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa cũng là vấn đề cần phải xem xét lại, bởi lẽ không có lý do gì lại không cho Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, không ai hiểu nội dung vụ án, cũng như các mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng bằng Thẩm phán, vì thông qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án Thẩm phán có thể biết người bào chữa có thuộc trường hợp bắt buộc hay không bắt buộc, có thuộc trường hợp phải thay đổi hay không. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc gây phiền hà cho Luật sư, vì không phải lúc nào Chánh án, Phó Chánh án cũng có mặt tại trụ sở để xem xét việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận bào chữa cho Luật sư. 
Trong giai đoạn xét xử, Thẩm phán chủ toạ phiên toà là người điều khiển phiên toà, nhưng do tư duy cũ và thói quen của Thẩm phán từ thế hệ này qua thế hệ khác quá tập trung vào việc “khuất phục” bị cáo nên không quan tâm đến việc điều khiển phiên toà nhất là điều khiển việc tranh luận giữa người bào chữa (Luật sư) với Kiểm sát viên tham gia phiên toà. Đây là khâu yếu nhất của Thẩm phán chủ toạ phiên toà hiện nay.
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định khi xét hỏi bị cáo, chủ toạ phiên toà phải để bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Hội đồng xét xử hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.(Điều 209 BLTTHS), nhưng trên thực tế hầu hết các phiên toà hiện nay, chủ toạ phiên toà không để cho bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trang và những tình tiết của vụ án, mà chủ toạ phiên toà đặt ngay các câu hỏi theo diễn biến sự việc mà nội dung bản cáo trạng nêu. Thực tế thì Thẩm phán chủ toạ phiên toà hỏi là chính, hỏi hết cả phần của Kiểm sát viên và người bào chữa; hỏi như một Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên hỏi bị can trong giai đoạn điều tra; Thẩm phán không chỉ hỏi mà còn giáo dục bị cáo, bình luận, nhận xét, tỏ thái độ đối với lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; tại phiên toà sơ thẩm người ta chỉ thấy chủ toạ phiên toà nói. Chủ toạ phiên toà không chỉ hỏi mà còn giải thích, cho bị cáo và những người tham gia tố tụng về Bộ luật hình sự, trong khi đó thì lại không giải thích cho bị cáo và những người tham gia tố tụng về quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên toà theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự cũng chưa có quy định tại phiên toà những người tham gia tố tụng được hỏi lẫn nhau, trong khi đó ở giai đoạn điều tra, lại có quy định khi đối chất Điều tra viên có thể cho những người đối chất được hỏi lẫn nhau (Điều 138 BLTTHS).
Đối với Hội thẩm, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán chủ toạ phiên toà, mọi quyết định của Hội đồng xét xử được biểu quyết theo đa số. Tuy nhiên, trên thực tế thì rất ít Hội thẩm thực hiện đúng trách nhiệm và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho mình, Chế định Hội thẩm tham gia xét xử còn nặng tính hình thức, Hội thẩm còn ỷ lại quá nhiều vào Thẩm phán, không có tư duy độc lập; các quyết định của Hội đồng xét xử chủ yếu do Thẩm phán chủ toạ phiên toà đưa ra và Hội thẩm chỉ đồng ý; rất ít vụ án bản án của Hội đồng xét xử được thông qua tại phòng nghị án. Công tác lựa chọn, bầu hoặc cử Hội thẩm cũng chưa được quan tâm, đặc biệt việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho Hội thẩm chưa đáp ứng yêu cầu. 
Thư ký Toà án được phân công tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự có những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau: Phổ biến nội quy phiên toà; báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được triệu tập đến phiên toà; ghi biên bản phiên toà; tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Toà án theo sự phân công của Chánh án Toà án (Điều 41 BLTTHS). Thực tế cho thấy, việc ghi biên bản phiên toà của Thư ký Toà án hiện nay là vấn đề yếu nhất; Thư ký Toà án ở các Toà án hiện nay đều là sinh viên đại học luật mới ra trường, không được đào tạo nghề (Thư ký); việc tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho họ cũng chưa đáp ứng được yêu cầu; hầu hết biên bản phiên toà hiện nay không phản ảnh đầy đủ và trung thực diễn biến phiên toà, do Thư ký Toà án không ghi chép kịp.
Kiểm sát viên tham gia phiên toà hình sự sơ thẩm để thực hiện quyền công tố. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên tham gia phiên toà đã được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát viên là người công bố bản cáo trạng, bổ sung cáo trạng hoặc rút cáo trạng tại phiên toà; tham gia cùng với Hội đồng xét xử xét hỏi tại phiên toà, trình bày lời luận tội, tranh luận với người bào chữa hoặc bị cáo; đưa ra chứng cứ hoặc yêu cầu, trong đó có quyền yêu cầu thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án. Thực trạng hiện nay cho thấy có nhiều trường hợp Kiểm sát viên ít tham gia xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác để chứng minh tội phạm, mà ỷ lại cho chủ toạ phiên toà; khi trình bày lời luận tội tại phiên toà không căn cứ vào kết quả xét hỏi mà lại căn cứ vào Bản cáo trạng, mặc dù kết quả xét hỏi tại phiên toà đã có nhiều nội dung không đúng với bản cáo trạng; đặc biệt sau khi người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo và đề nghị Kiểm sát viên tranh luận về từng vấn đề mà người bào chữa (Luật sư) nêu ra, nhưng một số Kiểm sát viên không tranh luận lại, thậm chí chỉ nói một câu “vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố”, cá biệt có Kiểm sát viên từ chối tham gia phiên toà mà không có lý do chính đáng.
b).  Về người tham gia tố tụng
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì người tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm bao gồm: Bị cáo; người bào chữa; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người bảo vệ quyền lợi của đương sự; người làm chứng; người giám định; người phiên dịch.
Trong số những người tham gia tố tụng thì bị cáo là nhân vật trung tâm. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự cũng nhằm tới việc xác định bị cáo có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì phạm tội gì, mức hình phạt bao nhiêu, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thế nào…Là bị cáo, họ chưa bị coi là người có tội, họ chỉ là người bị cáo buộc về một tội phạm nào đó theo Bộ luật hình sự, nên họ phải được đối xử như đối với một người bình thường khác. Cũng chính vì vậy mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định quyền của bị cáo rất đầy đủ và cụ thể để họ tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ cho mình trước lời cáo buộc của Viện kiểm sát tại phiên toà.  Tuy nhiên, trực trạng hiện nay, do nhận thức chưa đúng nên trước phiên toà bị cáo bị đối xử như người đã có tội; Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên và ngay cả những người tham dự phiên toà cũng coi bị cáo là người đã có tội.
Để bảo vệ các quyền của bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, theo Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành thì bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
 Người bào chữa là người được bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ, mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho bị cáo, nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý. Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân.
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp luật theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức nhằm góp phần bảo vệ công lý. Hiện nay cả nước có hơn 6.250 Luật sư và hơn 3000 thực tập làm nghề Luật sư. Theo đánh giá của Liên đoàn Luật sư thì vị thế của Luật sư đã được nâng cao rõ rệt; các cơ quan tiến hành tố tụng tôn trọng, tạo thuận lợi hơn cho Luật sư khi hành nghề; các Đoàn Luật sư được địa phương quan tâm hơn, hỗ trợ nhiều hơn vè kinh phí, cơ sở vật chất. Tuy nhiên, số lượng Luật sư phân bổ chưa đồng đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội, mới có khoảng 20% vụ án hình sự có Luật sư tham gia; Luật sư chuyên sâu về các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại còn ít. Trình độ, năng lực của Luật sư cũng còn hạn chế; còn vi phạm đạo đức nghề nghiệp; cá biệt có Luật sư lợi dụng hành nghề để lừa đảo chiếm đoạt tài sản; lợi dụng diễn đàn để tuyên truyền chống nhà nước ảnh hưởng uy tín của Luật sư…
Ngoài Luật sư, người bào chữa có thể là người đại diện hợp pháp của người bị cáo. Người đại diện hợp pháp là bố mẹ để, bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp luật đối với bị can bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần.
Ngoài ra, người bào chữa còn có thể là Bào chữa viên nhân dân. Bào chữa viên nhân dân là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho bị cáo. Tuy nhiên, chế định bào chữa viên nhân dân hiện nay vẫn chưa có nên thực tiễn không ít trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho họ vì rất khó xác định họ có phải là bào chữa viên nhân dân hay không ?
Ngoài bị cáo, Bộ luật hình sự Việt Nam còn quy định những người tham gia tố tụng khác như: Người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng; người giám định; người phiên dịch; người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Trong số những người tham gia tố tụng trên, có người bị hại là người mà thực tiễn xét xử còn nhiều vướng mắc, một phần do Bộ luật tố tụng hình sự quy định không rõ ràng, phần còn lại là do nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng không thống nhất.
Bộ luật tố tụng hình sự cũng như Bộ luật hình sự không có quy định đối với tội phạm nào thì có người bị hại, còn tội phạm thì không, nên thực tiễn xét xử có Toà án xác định là người bị hại có Toà án chỉ xác định là nguyên đơn dân sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án như: đối với tội chống người thi hành công vụ hoặc đối với tội gây rối trật tự công cộng gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản thì trường hợp nào có người bị hại, trường hợp không có người bị hại ? Các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương cũng không thấy hướng dẫn.
Theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bị hại chỉ có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo, nhưng theo quy định tại đoạn 1 Điều 231 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm, nên cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cũng như người tham gia tố tụng đều hiểu rằng, người bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ bản án, kể cả tội danh, hình phạt và các quyết định khác. Cách hiểu này rõ ràng là không đúng nhưng lại được các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng chấp nhận và quyết định theo cách hiểu này. Ví dụ: Do có kháng cáo của người bị hại nên Toà án cấp phúc thẩm đã chuyển tội danh từ tội cố ý gây thương tích sang tội giết người (là tội danh nặng hơn).
Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự thì, trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà. Vậy, người bị hại trình bày lời buộc tội trước hay sau khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội ? Nếu người bị hại vắng mặt thì Toà án có xét xử vắng mặt họ được không ?
Theo quy định tại khoản 5 Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự thì, trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền của người bị hại, nhưng ai là người đại diện hợp pháp cho người bị hại thì Bộ luật tố tụng hình sự không quy định. Trường hợp người bị hại không chết nhưng họ là người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì có người đại diện cho họ không, Bộ luật tố tụng hình sự chưa quy định.
Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự quy định nếu người bị hại từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội từ chối khai báo theo Điều 308 của Bộ luật hình sự, nhưng trên thực tế chưa có trường hợp nào người bị hại bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, mặc dù có nhiều trường hợp họ không cộng tác với cơ quan tiến hành tố tụng như: không đi giám định tỷ lệ thương tật, không có mặt theo giấy triệu tập mà sự có mặt của họ là bắt buộc, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và cho Toà án nói riêng.
4. Một số vấn đề về hình thức và thủ tục tại phiên toà  
Do lịch sử để lại, có sự kế thừa mô hình tố tụng của Toà án Pháp nên từ phòng xử án, vị trí, chỗ ngồi của Hội đồng xét xử, của Kiểm sát viên, Thư ký phiên toà, “Vành móng ngựa”, chỗ ngồi của người bào chữa (Luật sư) và những người tham gia tố tụng khác cho đến nay vẫn không có gì thay đổi. Khi đất nước mở cửa, phát triển kinh tế thị trường, đã nhiều lần có ý kiến đề nghị Luật sư phải được ngồi ngang hàng với Kiểm sát viên; tại Hội nghị tổng kết 2 năm ngày thành lập Liên đoàn Luật sư Việt Nam, trả lời phỏng vấn báo giới, Chủ tịch liên đoàn Luật sư lại đề cập đến chỗ ngồi của Luật sư tại phiên toà sao cho bình đẳng với Kiểm sát viên.
Việc trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung cũng còn nhiều vấn đề Bộ luật tố tụng hình sự quy định chưa đầy đủ như: trường hợp chỉ cần truy tố lại chứ không cần điều tra lại bất cứ một tình tiết nào của vụ án, nhưng trong quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung vẫn phải ghi “để điều tra bổ sung”. Việc Điều bổ sung đối với phần dân sự trong vụ án hình sự chưa được Bộ luật tố tụng hình sự quy định cụ thể, mặc dù Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự”. Giải quyết không chỉ bao gồm xét xử mà bao gồm cả giai đoạn điều tra, truy tố. Khi Toà án trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung về vấn đề dân sự, một số Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra không nhận hồ sơ vụ án mà làm công văn trả ngay cho Toà án với lý do: Toà án có thẩm quyền điều tra về vấn đề dân sự.
Theo quy định tại Điều 177 Bộ luật tố tụng hình sự thì, đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên toà thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Toà án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên toà. Tuy nhiên, thực tế có nhiều trường hợp phiên toà không mở, thời hạn tạm giam đã hết, thế là Toà án ra một cái lệnh vô thời hạn: “tạm giam bị cáo cho đến khi kết thúc phiên toà”, có trường hợp 6 tháng hoặc một năm sau phiên toà mới được mở. Đây là vi phạm không phải ít, nhưng không được phát hiện, uốn nắn.
Đến ngày mở phiên toà theo quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng vì những lý do khác nhau nên phải hoãn phiên toà, trong đó có những lý do không đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; việc thông báo hoãn phiên toà cũng không thống nhất, có Toà án thông báo bằng văn bản gửi cho cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, nhưng có Toà án chỉ viết ở trên bảng đạt trước trụ sở với nội dung: “phiên toà xét xử bị cáo A hoãn” không có một lời giải thích.
Hiện nay, có nhiều trường hợp sau khi điều tra bổ sung, Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án lại cho Toà án xét xử sơ thẩm nhưng chỉ bằng một công văn, không thay đổi bản cáo trạng (vẫn bản cáo trạng cũ), Việc làm này là không đúng pháp luật vì kết quả điều tra sung cần phải được thể hiện trong bản cáo trạng.
Kể từ khi khai mạc phiên toà cho đến khi kết thúc phiên toà có thể chia ra các giai đoạn: phần mở đầu, phần xét hỏi, phần tranh luận và tuyên án.
Đánh giá chung, thì việc xét xử tại phiên toà hiện nay so với trước khi có Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02-1-2002 của Bộ Chính trị có tiến bộ hơn, bước đầu bảo đảm tranh tụng dân chủ giữa người bào chữa (Luật sư) với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác…; việc phán quyết của Toà án đã căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà; phiên toà diễn ra dân chủ hơn; quyền lợi của người tham gia tố tụng được tôn trọng. Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp thì chưa đáp ứng. Sau khi có Nghị quyết số 08-NQ/TW, các Toà án tập trung tổ chức các phiên toà “mẫu” để rút kinh nghiệm rồi nhân rộng trên phạm vi toàn ngành, nhưng sau một thời gian, các Toà án đều báo cáo là đã tổ chức phiên toà hình sự sơ thẩm đúng với tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW, nhưng trên thực tế thì hiện nay còn nhiều phiên toà vẫn xét xử không đúng với Nghị quyết số 08-NQ/TW và Công văn số  Số: 13-CV/BCĐCCTP ngày 04 tháng 11 năm 2002 của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương. Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49NQ/TW, ngày 02-6-2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì lại nhận thức rằng, Nghị quyết số 08-NQ/TW và Công văn số  Số: 13-CV/BCĐCCTP không còn hiệu lực. Vậy là những phiên toà “mẫu” không còn là “mẫu” nữa. Mặt khác do Bộ luật tố tụng hình sự chưa được sửa đổi, bổ sung theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49NQ/TW nên việc tổ chức và điều khiển phiên toà hình sự sơ thẩm vẫn còn mang nặng tính thẩm vấn, chưa thể hiện tính tranh tụng tại phiên toà. Chủ toạ phiên toà vẫn hỏi quá nhiều, không chỉ hỏi mà còn giáo dục, nhận xét, bình luận, đánh giá về lời của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Phần tranh luận chính là phần thể hiện tính tranh tụng nhất nhưng chủ toạ phiên toà chưa điều khiển để người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tranh luận với Kiểm sát viên, còn Kiểm sát viên thì không tranh luận hoặc tranh luận không hết các ý kiến mà người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng đưa ra cần tranh luận làm rõ. Việc xử lý các tình huống tại phiên toà của chủ toạ cũng còn lúng túng, khi gặp phải trường hợp ngoài dự kiến ban đầu của chủ toạ phiên toà như: người bào chữa (Luật sư) tự ý rời bỏ phòng xử án mà không được chủ toạ đồng ý; bị cáo ra toà lặng thinh như người câm, không nói, không trả lời bất cứ câu hỏi nào của Hội đồng xét xử hoặc của Kiểm sát viên; tại phiên toà bị cáo đề nghị mời Luật sư bào chữa; Kiểm sát viên đề nghị hoãn phiên toà rút hồ sơ vụ án để xem xét lại…Việc Hội đồng nghị án, cũng như thời gian nghị án còn nhiều vấn đề Bộ luật tố tụng hình sự chưa quy định rõ ràng; chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát xem bản án có được thông qua tại phòng nghị án hay không ? Biên bản nghị án có phản ảnh đúng trình tự, nội dung thảo luận của Hội đồng xét xử hay không ?…
I-  PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ  
Hoàn thiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, là một yêu cầu tất yếu và cũng là vấn đề nằm trong chiến lược cải cách tư pháp mà Nghị quyết số 49NQ/TW đề ra. Vì vậy, phương hướng hoàn thiện phải gắn liền với mục tiêu và phương hướng cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49NQ/TW của Bộ Chính trị.
1. Xác định mô hình tố tụng hình sự
Trước hết, cần xác định mô hình tố tụng hình sự ở nước ta theo mô hình như thế nào, đây là vấn đề cốt lõi của việc hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự nói chung và thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng.
Hiện nay, trên sách báo cũng như các báo cáo về cải cách tư pháp đều xác định mô hình (kiểu) tố tụng hình sự của nước ta hiện nay là “tố tụng thẩm vấn” và đi liền với mô hình tố tụng thẩm vấn là “luật thành văn”. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, mô hình tố tụng của nước ta hiện nay là một hình tố tụng pha trộn. Theo TS Nguyễn Duy Hưng thì “Mô hình tố tụng pha trộn giữa thẩm vấn và tranh tụng của chúng ta rất tiến bộ vì kết hợp được ưu điểm của hai mô hình tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng ra đời trước đó là nhà nước kiểm soát được tội phạm nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi hợp pháp của nghi can. Nếu chính thức ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi thì sẽ càng làm tăng thêm tính ưu việt của nó[1]. Đồng tình với ý kiến trên, đa số cho rằng trên thực tế Bộ luật tố tụng hình sự của nước ta đã có một số quy định mang tính tranh tụng, chứ không chỉ thuần tuý là thẩm vấn. Trên thế giới hiện nay cũng không còn mô hình tố tụng của quốc gia nào chỉ thuần tuý là “tranh tụng” hay “thẩm vấn” mà đã có sự pha trộn. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào mỗi nước mà tính tranh tụng hay tính thẩm vấn nhiều hay ít. Còn ở nước ta căn cứ vào các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì còn nặng về tính “thẩm vấn” mặc dù tính “tranh tụng” đã được ghi nhận nhưng chưa đậm nét.
 Khẳng định lại mô hình tố tụng “pha trộn” mà nước ta đang áp dụng, tức là chúng ta phải trả lời câu hỏi: Vì sao cho đến nay mô hình tranh tụng pha trộn lại không phát huy được tác dụng như chúng ta mong đợi ? Đó là vì các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng vẫn mang nặng tư duy cũ và thiên về tố tụng thẩm vấn nhiều hơn; Bộ luật tố tụng hình sự cũng chưa có nhiều quy định bảo đảm cho tính tranh tụng nhiều hơn, nhất là các quy định về phiên toà, mặc dù Nghị quyết số 08-NQ/TW và Công văn số 13 của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp đã có nhiều nội dung mang tính tranh tụng nhiều hơn.
2. Xây dựng pháp luật 
Xây dựng một hệ thống pháp luật từ Hiến pháp đến các Luật, Pháp lệnh… có liên quan đến các quy định về xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm nói riêng thể hiện tính tranh tụng nhiều hơn nữa.
Các quy định của Hiến pháp về “Cơ quan tư pháp”, cũng như quy định về các quyền cơ bản của Công dân, cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng: Nâng cao vị thế của Toà án, chỉ có các Toà án mới là Cơ quan tư pháp; Hệ thống Toà án được tổ chức lại thành 4 cấp; Viện kiểm sát là Cơ quan công tố; Cơ quan điều tra không nằm trong Bộ Công an; hoạt động điều tra dưới sự chỉ huy của Công tố; các cơ quan này không phụ thuộc vào đơn vị hành chính.
Luật tổ chức Toà án, Luật tổ chức Công tố và Luật tổ chức Cơ quan điều tra cần cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về hệ thống Toà án, Hệ thống cơ quan Công tố và Công tố viên, Hệ thống Cơ quan điều tra và Điều tra viên.
Bộ luật tố tụng hình sự, cần sửa đổi, bổ sung theo hướng:
- Không quy định người đứng đầu Toà án, Viện công tố, Cơ quan điều tra là “Người tiến hành tố tụng”, vì những người này đại diện cho cơ quan tiến hành tố tụng. Thẩm phán có quyền cấp giấy chứng nhận người bào chữa và có quyền áp dụng, thay đổi tất cả các biện pháp ngăn chặn, kể cả biện pháp tạm giam.
- Chỉ quy định Luật sư mới là người bào chữa, sửa đổi, bổ sung một số quyền và nghĩa vụ của Luật sư để tạo thuận lợi cho Luật sư  hoạt động; bổ sung một số quyền và nghĩa vụ đối với Luật sư trong trường hợp bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng (bào chữa bắt buộc).
- Tách phần dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết bằng vụ án dân sự nếu các bên có yêu cầu.
- Bỏ thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ, Cơ quan công tố có quyền truy tố một công dân ra bất cứ Toà án nào trên lãnh thổ Việt Nam để xét xử sơ thẩm theo thẩm quyền xét xử (thẩm quyền theo việc), nếu có tranh chấp về thẩm quyền theo việc thì Viện công tố giải quyết chứ không phải Chánh án Toà án.
- Về giới hạn xét xử cần quy định: Viện công tố chỉ truy tố người phạm tội và hành vi mà người đó thực hiện, còn bị cáo có phạm tội hay không và phạm tội gì thì để cho Toà án quyết định.
- Thay đổi hình thức phiên toà sơ thẩm theo hướng: Bỏ vành móng ngựa thay vào đó là ghế bị cáo; bàn của Hội đồng xét xử cao nhất, Luật sư và Công tố viên ngồi ngang nhau nhưng thấp hơn Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án ngồi ở phía dưới Hội đồng xét xử; mọi diễn biến phiên toà, kể cả diễn biến khi nghị án phải được ghi âm hoặc ghi hình và được sử dụng bảo quản theo quy định của pháp luật.
- Khi xét xử Công tố viên trình bày bản cáo trạng và đặc cách câu hỏi đối với  bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; trong quá trình xét hỏi, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác cũng có quyền hỏi; bị cáo có thể đặt câu hỏi đối với những người tham gia tố tụng khác; Thẩm phán chủ toạ phiên toà chỉ điều khiển việc xét hỏi, chỉ đặt câu hỏi đối với Công tố viên người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác khi thật cần thiết, chấp nhận hoặc bác bỏ những câu hỏi hoặc yêu cầu người bị hỏi không phải trả lời vì câu hỏi và câu trả lời có thể làm lộ bí mật nhà nước, hoặc xâm phạm nghiêm trọng đến thuần phong mỹ tục.
- Đối với vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì người bị hại bắt buộc phải có mặt tại phiên toà và trình bày lời buộc tội trước khi Công tố viên trình bày lời luận tội, nếu họ vắng mặt không có lý do chính đáng thì vụ án được đình chỉ, vì người bị hại từ bỏ quyền khởi tố, mà theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự là bắt buộc.
Cùng với việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự theo hướng trên, thì cần có Luật về chứng cứ. Bộ luật tố tụng hình sự chỉ quy định trình tự, thủ tục thu thập, cung cấp chứng cứ, còn các vấn đề khác về chứng cứ như: khái niệm, nội dung, nguồn chứng cứ, giá trị của chứng cứ, đánh giá chứng cứ… sẽ quy định trong Luật về chứng cứ.
3. Nâng cao trình độ, năng lực cho Thẩm phán, Công tố viên, Điều tra viên và Luật sư.
Mọi sự thay đổi, cải cách bảo đảm tăng cường tính tranh tụng tại phiên toà, suy cho đến cùng vấn đề quyết định vẫn là con người. Nếu trình độ, năng lực, kinh nghiệm nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán, Công tố viên, Điều tra viên và Luật sư như hiện nay thì mục tiêu cải cách sẽ không đạt được. Vì vậy, việc tiêu chuẩn hoá đội ngũ này cần phải tiến hành đồng bộ với quá trình cải cách tư pháp theo một lộ trình hợp lý.
- Đối với đội ngũ Thẩm phán,cần nghiên cứu bỏ hình thức xét tuyển bằng hình thức thi tuyển, không chỉ thi tuyển vào ngạch Thẩm phán mà thi tuyển từ Thẩm phán sơ cấp lên Thẩm phán trung cấp, từ trung cấp lên Thẩm phán cao cấp, từ cao cấp lên Thẩm phán tối cao.
- Đối với Công tố viên (Kiểm sát viên hiện nay), ngoài kiến thức về kiểm sát điều tra thì phải có kiến thức điều tra và chỉ huy điều tra; năng lực, trình độ, kinh nghiệm xét hỏi, tranh luận tại phiên toà. Cũng cần thi tuyển như đối với Thẩm phán.
- Đối với Điều tra viên là người trực tiếp thực hiện việc điều tra tội phạm, ngoài kiến thức pháp luật thì còn cần phải giỏi về nghiệp vụ điều tra, khám phá tội phạm, hiểu và sử dụng thành thạo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ. Việc bổ nhiệm Điều tra viên cũng phải áp dụng hình thức thi tuyển như đối với Thẩm phán và Công tố viên.
- Đối với Luật sư cần tăng về số lượng, đồng thời quan tâm đến chất lượng, chế độ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, thi tuyển phải bảo đảm các tiêu chuẩn về năng lực và đạo đức nghề nghiệp của Luật sư; chế độ miễn cho những người tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên và các đối tượng khác) cũng phải có tiêu chí cụ thể chứ không phải ai cũng được miễn như quy định hiện nay; cần có quy định bảo vệ Luật sư khihàng nghề, đồng thời xử lý nghiêm minh đối với Luật sư vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.
Chú thích:
[1] Trích phát biểu tại buổi toạ đàm do Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh  tổ chức ngày 21-5-2011
Nguồn: Cổng thông tin điện tử TANDTC (http: toaan.gov.vn)