Hiển thị các bài đăng có nhãn tranh chấp hợp đồng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tranh chấp hợp đồng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 15 tháng 1, 2013

Tranh chấp hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng

Tranh chấp hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng được thể hiện qua nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằngthương lượng, hòa giải, tòa án, trọng tài và các nội dung khác liên quan, cụ thể như sau:

giai-quyet-tranh-chap-hop-dong-jpeg-06122012113030-U1.jpeg

Tranh chấp hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng

I. Tranh chấp Hợp đồng:

Là sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các bên tham gia quan hệ Hợp đồng liên quan đến việc thực hiện (hoặc không thực hiện) các quyền và nghĩa vụ theo Hợp đồng.

1. Tranh chấp Hợp đồng là ý kiến không thống nhất của các bên về việc đánh giá hành vi vi phạm hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ vi phạm đó (trong khi vi phạm Hợp đồng là hành vi đơn phương của một bên đã xử sự trái với cam kết trong Hợp đồng).

2.  Các đặc điểm của tranh chấp Hợp đồng:

+   Phát sinh trực tiếp từ quan hệ Hợp đồng, nên luôn luôn thuộc quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp (tức các bên trong Hợp đồng).

+   Mang yếu tố tài sản (vật chất hay tinh thần) và gắn liền lợi ích các bên trong tranh chấp.

+   Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp Hợp đồng là bình đẳng, thỏa thuận.

II. Giải quyết tranh chấp Hợp đồng:

1.  Tranh chấp Hợp đồng đòi hỏi phải được giải quyết thỏa đáng bằng một phương thức chọn lựa phù hợp để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, vừa đảm bảo trật tự pháp luật và kỷ cương xã hội, giáo dục được ý thức tôn trọng pháp luật của công dân, góp phần chủ động ngăn ngừa các vi phạm Hợp đồng.

2.  Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp Hợp đồng phải đảm bảo nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật.

3.  Quyết định giải quyết các tranh chấp Hợp đồng phải có tính khả thi cao, thi hành được và quá trình giải quyết phải đảm bảo tính dân chủ và quyền tự định đoạt của các bên với chi phí giải quyết thấp.

4.  Tranh chấp Hợp đồng có thể được giải quyết bằng các phương thức khác nhau: hòa giải, trọng tài hay Tòa án.

5.   Các bên tranh chấp có thể chọn lựa một phương thức giải quyết tranh chấp Hợp đồng phù hợp hoặc sử dụng phối hợp nhiều phương pháp.

6.  Các yếu tố tác động chi phối việc các bên chọn lựa phương thức giải quyết các tranh chấp Hợp đồng:

+   Các lợi thế mà phương thức đó có thể mang lại cho các bên.

+   Mức độ phù hợp của phương thức đó đối với nội dung và tính chất của tranh chấp Hợp đồng với cả thiện chí của các bên.

+   Thái độ hay qui định của nhà nước đối với quyền chọn lựa phương thức giải quyết của các bên.

Giải quyết tranh chấp hợp đồng theo các phương thức sau đây:

1.  Phương thức thương lượng, hòa giải:

+   Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm nhất trong lịch sử xã hội loài người trên nhiều lãnh vực, chứ không riêng đặc trưng gì với tranh chấp Hợp đồng.

+   Hòa giải là các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận để đi đến thống nhất một phương án giải quyết bất đồng giữa họ và tự nguyện thực hiện phương án đã thỏa thuận qua hòa giải.

+   Ở VN, việc hòa giải tranh chấp Hợp đồng được coi trọng. Các bên phải tự thương lượng, hòa giải với nhau khi phát sinh tranh chấp. Khi thương lượng, hòa giải bất thành mới đưa ra Tòa án hoặc trọng tài giải quyết. Ngay tại Tòa án, các bên vẫn có thể tiếp tục hòa giải với nhau. Ở VN, bình quân mỗi năm, số lượng tranh chấp kinh tế được giải quyết bằng phương thức hòa giải chiếm đến trên dưới 50% tổng số vụ việc mà Tòa án đã phải giải quyết.

+   Các ưu điểm của giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh tế trong thực tế bằng phương thức hòa giải:

-    Là phương thức giải quyết tranh chấp đơn giản, nhanh chóng, ít tốn kém.

-    Các bên hòa giải thành thì không có kẻ thắng người thua nên không gây ra tình trạng đối đầu giữa các bên, vì vậy duy trì được quan hệ hợp tác vẫn có giữa các bên.

-    Các bên dễ dàng kiểm soát được việc cung cấp chứng từ và sử dụng chứng từ đó giữ được các bí quyết kinh doanh và uy tín của các bên.

-    Hòa giải xuất phát từ sự tự nguyện có điều kiện của các bên, nên khi đạt được phương án hòa giải, các bên thường nghiêm túc thực hiện.

+   Những mặt hạn chế của phương thức hòa giải trong tranh chấp hợp đồng:

-    Nếu hoà giải bất thành, thì lợi thế về chi phí thấp trở thành gánh nặng bổ sung cho các bên tranh chấp.

-    Người thiếu thiện chí sẽ lợi dụng thủ tục hòa giải để trì hoản việc thực hiện nghĩa vụ của mình và có thể đưa đến hậu quả là bên có quyền lợi bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc trọng tài vì hết thời hạn khởi kiện.

+   Các hình thức hòa giải:

-    Tự hòa giải: là do các bên tranh chấp tự bàn bạc để đi đến thống nhất phương án giải quyết tranh chấp mà không cần tới sự tác động hay giúp đỡ của đệ tam nhân.

-    Hòa giải qua trung gian: là việc các bên tranh chấp tiến hành hòa giải với nhau dưới sự hổ trợ, giúp đỡ của người thứ ba (người trung gian hòa giải). Trung gian hòa giải có thể là cá nhân, tổ chức hay Tòa án do các bên tranh chấp chọn lựa hoặc do pháp luật qui định.

-    Hòa giải ngoài thủ tục tố tụng: là việc hòa giải được các bên tiến hành trước khi dưa đơn khởi kiện ra Tòa án hay trọng tài.

-    Hòa giải trong thủ tục tố tụng: là việc hòa giải được tiến hành tại Tòa án, trong tài khi các cơ quan này tiến hành giải quyết tranh chấp theo đơn kiện của một bên (hòa giải dưới sự trợ giúp của Tòa án hay trọng tài). Tòa án, trong tài sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên và quyết định này có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên.

2.  Phương thức giải quyết bởi Trọng tài:

Các bên thỏa thuận đưa ra những tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ ra giải quyết tại Trọng tài và Trọng tài sau khi xem xét sự việc tranh chấp, sẽ đưa ra phán quyết có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên.

+   Phương thức giải quyết trọng tài cũng bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện.

+   Các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn một Trọng tài phù hợp, chỉ định trọng tài viên để thành lập Hợp đồng (hoặc Ủy ban) Trọng tài giải quyết tranh chấp.

+   Khác với thương lượng hòa giải, trọng tài là một cơ quan tài phán (xét xử). Tính tài phán của trọng tài thể hiện ở quyết định trọng tài có giá trị cưỡng chế thi hành.

+   Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh tế, trong đó có tranh chấp Hợp đồng (tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng thuần túy dân sự không thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài).

+   Thẩm quyền của Trọng tài được xác định không phụ thuộc vào quốc tịch, địa chỉ trụ sở giao dịch chính của các bên tranh chấp hay nơi các bên tranh chấp có tài sản hay nơi ký kết hoặc thực hiện Hợp đồng.

+   Điều kiện để trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là các bên phải có thỏa thuận trọng tài.

+   Thỏa thuận trọng tài là sự nhất trí của các bên đưa ra những tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ ra giải quyết tại trọng tài.

+   Thỏa thuận trọng tài phải thể hiện dưới hình thức văn bản và phải chỉ đích danh một trung tâm trọng tài cụ thể .

+   Thỏa thuận trọng tài có thể là một điều khoản của Hợp đồng (điều khoản trọng tài) hay là một thỏa thuận riêng biệt (Hiệp nghị trọng tài).

+   Mọi sự thay đổi, đình chỉ, hủy bỏ hay vô hiệu của Hợp đồng đều khôn glàm ảnh hưởng đến hiệu lực của thoả thuận trọng tài (trừ trường hợp lý do làm Hợp đồng vô hiệu cũng là lý do làm thoả thuận trọng tài vô hiệu).

+   Thỏa thuận trọng tài không có giá trị ràng buộc các bên khi nó không có hiệu lực hoặc không thể thi hành được.

+   Khi đã có thỏa thuận trọng tài thì các bên chỉ được kiện tại trọng tài theo sự thỏa thuận mà thôi. Tòa án không tham gia giải quyết nếu các bên đã thỏa thuận trọng tài, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài là không thể thực hiện được.

+   Trọng tài hoạt động theo nguyên tắc xét xử một lần. phán quyết trọng tài có tính chung thẩm: các bên không thể kháng cáo trước Tòa án hoặc các tổ chức nào khác.

+   Các bên tranh chấp phải thi hành phán quyết trọng tài trong thời hạn ấn định của phán quyết.

Các ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp Hợp đồng thông qua trọng tài:
a)  Thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng.

b)  Các bên tranh chấp có khả năng tác động đến quá trình trọng tài.

c)  Quyền chỉ định trọng tài viên giúp các bên lựa chọn được trọng tài viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu sắcvấn đề đang tranh chấp. Qua đó, có điều kiện giải quyết tranh chấp Hợp đồng nhanh chóng, chính xác.

d)  Nguyên tắc trọng tài không công khai giúp các bên hạn chế sự tiết lộ các bí quyết kinh doanh, giữ được uy tính của các bên trên thương trường.

e)  Trọng tài không đại diện cho quyền lực nhà nước nên rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp có nhân tố nước ngoài.

Các mặt hạn chế của phương thức trọng tài:

a) Tính cưỡng chế thi hành các quyết định trọng tài không cao (vì Trọng tài không đại diện cho quyền lực tư pháp của nhà nước).

b) Việc thực hiện các quyết định trọng tài hoàn tòan phụ thuộc vào ý thức tự nguyện của các bên.

3. Phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng theo thủ tục tố tụng tư pháp

Khi tranh chấp Hợp đồng phát sinh, nếu các bên không tự thương lượng, hòa giải với nhau thì có thể được giải quyết tại Tòa án. Tùy theo tính chất của Hợp đồng là kinh tế hay dân sự mà các tranh chấp phát sinh có thể được Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế hay thủ tục tố tụng dân sự.

Các lợi thế của việc giải quyết tranh chấp Hợp đồng qua Tòa án:

a)   Các quyết định của Tòa án (đại diện cho quyền lực tư pháp của nhà nước) có tính cưỡng chế thi hành đối với các bên.

b)   Với nguyên tắc 2 cấp xét xử, những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp có khả năng được phát hiện khắc phục.

c)   Với điều kiện thực tế tại Việt Nam, thì án phí Tòa án lại thấp hơn lệ phí trọng tài.
 
Các mặt hạn chế của việc giải quyết tranh chấp Hợp đồng qua Tòa án:

a)   Thời gian giải quyết tranh chấp thường kéo dài (vì thủ tục tố tụng Tòa án quá chặt chẽ).

b)   Khả năng tác động của các bên trong quá trình tố tụng rất hạn chế.

Ls Phan Khắc Nghiêm

Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011

TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ: LÀM MỘT BỘ PHIM, BỊ HAI NƠI KIỆN

TAND quận Bình Thạnh (TP.HCM) đang thụ lý vụ ca sĩ, diễn viên Minh Thuận kiện yêu cầu Công ty Năng Động Việt trả hơn 380 triệu đồng theo hợp đồng ký giữa hai bên để cung ứng diễn viên cho bộ phim Anh chàng vượt thời gian.
Thay ngựa giữa đường
Theo đơn kiện của ca sĩ Minh Thuận, tháng 7-2010, công ty của ông ký hợp đồng (trị giá hơn 1,6 tỉ đồng) cung ứng diễn viên cho Năng Động Việt để làm bộ phim truyền hình dài 36 tập Anh chàng vượt thời gian. Sau đó, Năng Động Việt chỉ thanh toán cho ông được 320 triệu đồng. Đến hạn của những lần thanh toán tiếp theo thì Năng Động Việt liên tục nại ra các lý do để lần lữa.
Tháng 1-2011, Năng Động Việt gửi văn bản cho Minh Thuận thông báo thay đổi pháp nhân sở hữu dự án phim Anh chàng vượt thời gian cho Công ty Cổ phần Tiếp thị Năng Động Việt (tách ra từ Năng Động Việt). Cho rằng Năng Động Việt cố tình vi phạm hợp đồng, Minh Thuận gửi yêu cầu quyết toán chi phí thực tế để thanh lý hợp đồng và yêu cầu bồi thường nhưng từ đó đến nay Năng Động Việt không phản hồi gì. Do đó, Minh Thuận đã khởi kiện đòi Năng Động Việt phải trả hơn 300 triệu đồng tiền dịch vụ cung ứng diễn viên còn thiếu và phạt vi phạm hợp đồng 80 triệu đồng, tổng cộng hơn 380 triệu đồng.
Hợp đồng có vô hiệu?
Quá trình tòa giải quyết vụ kiện đã nảy sinh nhiều tình tiết mới. Khi tòa lấy lời khai, bị đơn đã yêu cầu tòa tuyên bố hợp đồng dịch vụ cung ứng diễn viên giữa hai bên vô hiệu. Lý do là công ty của Minh Thuận không có chức năng cung ứng lao động theo giấy phép của cơ quan chức năng. Khi ký hợp đồng, bị đơn không phát hiện ra chuyện này vì nguyên đơn cố tình che giấu.

Lập tức, Minh Thuận phản bác rằng trong giấy phép thì công ty của ông có chức năng kinh doanh hoạt động hỗ trợ cho công nghiệp phim ảnh. Công ty không đào tạo diễn viên mà chỉ làm dịch vụ cung cấp và quản lý diễn viên (tức là sau khi đọc kịch bản sẽ chọn người phù hợp cung cấp cho nhà sản xuất phim). Công ty đã từng cung ứng dịch vụ diễn viên cho một số bộ phim đã trình chiếu như Cô gái xấu xí, Cánh đồng bất tận, Cô dâu đại chiến, Tóc rối… Tất cả hợp đồng giữa các diễn viên với công ty đều là hợp đồng dịch vụ theo quy định của Bộ luật Dân sự chứ không phải là hợp đồng lao động theo Bộ luật Lao động.
Bên quay phim cũng kiện
Liên quan đến bộ phim này, Công ty Cổ phần Tiếp thị Năng Động Việt cũng bị Công ty Cổ phần Gỗ Sài Lý khởi kiện đòi phải trả tiền công quay phim, làm hậu kỳ theo hợp đồng đã ký giữa hai bên. Vụ kiện này đã được TAND quận Bình Thạnh thụ lý.
Theo đơn khởi kiện, tháng 2-2011, Công ty Cổ phần Tiếp thị Năng Động Việt ký hợp đồng trị giá hơn 1,9 tỉ đồng với Công ty Cổ phần Gỗ Sài Lý để quay và làm hậu kỳ trọn gói cho toàn bộ 36 tập phim Anh chàng vượt thời gian. Hơn một tháng sau, sau khi thanh toán đợt đầu được 250 triệu đồng thì Công ty Cổ phần Tiếp thị Năng Động Việt yêu cầu ngưng hợp đồng, đổi êkíp khác và hai bên chấp nhận. Tuy nhiên, Sài Lý vẫn khởi kiện yêu cầu Công ty Cổ phần Tiếp thị Năng Động Việt phải thanh toán nốt tiền cho đến ngày chấm dứt hợp đồng. Cụ thể công việc mà nguyên đơn đã làm hết hơn 700 triệu đồng, phía bị đơn đã trả 250 triệu, còn lại hơn 460 triệu nữa. Ngoài ra, Sài Lý cũng yêu cầu phía bị đơn trả lại năm ổ cứng trị giá 7 triệu đồng mà Sài Lý đã cho bị đơn mượn để chép dữ liệu.
Sắp tới TAND quận Bình Thạnh sẽ tiến hành hòa giải giữa các bên đương sự. Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin đến bạn đọc.
Anh chàng vượt thời gian từng gây ồn ào
Bộ phim này có ý tưởng khá lạ, kể về một anh chàng bị hôn mê, tìm thấy lỗ hổng thời gian và đi ngược về quá khứ… Tuy nhiên, khi phát sóng hết phần một trên giờ vàng thì VTV đã quyết định ngưng vào cuối tháng 4-2011 với lý do là phim bị chỉ trích gay gắt về chất lượng cũng như nội dung, không được đầu tư công phu, thiếu tính chuyên nghiệp trong tất cả các khâu, diễn viên diễn xuất dở và mệt mỏi. Thậm chí bộ phim này từng bị khán giả liệt vào hàng “thảm họa phim Việt 2011”.
Cạnh đó, khi bộ phim còn đang quay, chưa hoàn thành thì đạo diễn, diễn viên và các thành viên khác trong  êkíp cũng đã mâu thuẫn gay gắt, đấu khẩu qua lại trên các mặt báo khiến bộ phim bị gián đoạn nhiều lần, không được sản xuất theo đúng kế hoạch.
Nguồn: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM

TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM: KHÔNG CÓ LỖI, BẢO HIỂM CŨNG PHẢI BỒI THƯỜNG

Ngày 27-12, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM đã y án sơ thẩm của TAND tỉnh Đồng Nai, buộc Công ty Bảo hiểm X. phải bồi thường cho Công ty Bảo vệ Y. 97 triệu đồng…
Bảo vệ làm mất xe
Theo hồ sơ, tháng 3-2009, Công ty Bảo vệ Y. ký hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp (những trách nhiệm phát sinh mà công ty bảo vệ phải bồi thường cho khách hàng của mình do những lỗi, sơ suất về chuyên môn) với Công ty Bảo hiểm X. Một thời gian sau, Công ty Y. để trộm vào lấy mất chiếc xe SH của một khách hàng và phải bồi thường hơn 97 triệu đồng. Sau đó căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm, Công ty Y. yêu cầu Công ty X. phải hoàn lại cho mình số tiền trên.
Phía công ty bảo hiểm từ chối với lý do sự cố trên không thuộc phạm vi bảo hiểm, việc mất xe là do lỗi của công ty bảo vệ. Bởi công ty bảo vệ giữ xe của khách nhưng không giao thẻ; khi mất xe, nhân viên bảo vệ không có mặt tại hiện trường… Theo hợp đồng, công ty bảo hiểm chỉ phải bồi thường nếu công ty bảo vệ có giao thẻ xe cho khách hàng.
Không đồng ý với cách lập luận trên, tháng 8-2010, Công ty Bảo vệ Y. khởi kiện ra TAND tỉnh Đồng Nai đòi được bồi thường.

Bảo hiểm phải bồi thường
Xử sơ thẩm tháng 7-2011, TAND tỉnh Đồng Nai nhận định công ty bảo vệ giữ xe nhưng không giao thẻ dẫn đến mất xe là có lỗi. Tuy nhiên, đây là lỗi chủ quan, sơ suất trong khi thực hiện nhiệm vụ chứ không phải cố ý để chiếm đoạt xe trái pháp luật. Vì thế cơ quan điều tra đã không khởi tố hai nhân viên bảo vệ – người có trách nhiệm trông giữ chiếc xe trên. Việc không giao thẻ cho khách diễn ra từ trước đến khi xảy ra sự cố do hai bên quá quen biết nhau. Thế nên công ty bảo hiểm viện lý do việc giữ xe không có thẻ để từ chối trả bảo hiểm là không phù hợp. Sau khi bị mất xe, công ty bảo vệ đã báo cơ quan công an, báo với công ty bảo hiểm là đúng quy trình, đúng quy định. Hợp đồng bảo hiểm vẫn còn hiệu lực nên công ty bảo hiểm phải thanh toán số tiền như công ty bảo vệ yêu cầu.
Xử phúc thẩm hôm qua, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM đồng tình với bản án sơ thẩm. HĐXX cho rằng bị đơn kháng cáo đề nghị tòa loại trừ trách nhiệm bồi thường của phía bị đơn là không có cơ sở. Án sơ thẩm xác định việc mất xe là có thật. Mặt khác, theo hợp đồng bảo hiểm giữa hai bên đã ký thì thiệt hại phát sinh dù người được bảo hiểm có lỗi cố ý hay vô ý cũng được bồi thường. Như vậy yêu cầu đòi bồi thường của công ty bảo vệ là có căn cứ. Mức bồi thường tính theo giá trị xe tại thời điểm mất xe cũng là hợp lý. Do vậy, tòa bác toàn bộ kháng cáo của công ty bảo hiểm, y án sơ thẩm.
Việc gửi, giữ có thể thỏa thuận miệng
Theo quy định của pháp luật dân sự, hợp đồng gửi, giữ tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên. Hợp đồng gửi, giữ tài sản có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản… Với vụ án trên, công ty bảo vệ không sai khi giữ xe mà không có thẻ vì hai bên quen biết, việc gửi, giữ được thỏa thuận miệng. Khi xe bị mất, công ty bảo vệ đã bồi thường cho khách. Như vậy, căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm mà hai bên ký kết như tòa đã đề cập, công ty bảo vệ phải được công ty bảo hiểm bồi thường.
Luật sư NGUYỄN MINH THUẬN, Đoàn Luật sư TP.HCM
Nguồn: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM