Hiển thị các bài đăng có nhãn tranh chấp đất đai. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tranh chấp đất đai. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 21 tháng 3, 2012

QUYỀN SỞ HỮU ĐẤT ĐAI TRONG HIẾN PHÁP 1992 SỬA ĐỔI?

Việc hạn điền hết vào năm 2013 sau 20 năm sử dụng đất nông nghiệp hiện chưa có tiền lệ giải quyết, đang trở thành nan đề sừng sững trước mắt cả người dân lẫn chính quyền, liên quan trực tiếp tới 3 phạm trù luật học: Hiến pháp, Đất đai, Quyền sở hữu, trong 3 mối quan hệ, Hiến pháp – Đất đai, Hiến pháp – Quyền sở hữu, Quyền sở hữu – Đất đai.
I. Hiến định quyền sở hữu và đất đai trên cơ sở nào?
Trong luật học, quyền sở hữu, bất kỳ sở hữu gì, đều được cấu thành bởi 3 quyền: Quyền chiếm hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng. Quyền chiếm hữu đất được thể hiện trên văn bản nhà nước xác định toạ độ, độ lớn mảnh đất đó, có tên điạ chỉ cá nhân hoặc pháp nhân sở hữu nó, cũng đồng nghĩa với xác lập trách nhiệm pháp lý chủ sở hữu đó đối với nó, như ở Đức được đưa cả vào Hiến pháp, quy định tại Điều 14, khoản 2: “Sở hữu phải chịu trách nhiệm, và khi sử dụng nó phải đồng thời vì lợi ích chung“. Quyền định đoạt là hệ dẫn của quyền chiếm hữu, bao gồm: thừa kế, hiến tặng, thế chấp, mua bán, trao đổi, chuyển nhượng, cho thuê… Quyền sử dụng có thể được chủ sở hữu khai thác hoặc chuyển cho người hay pháp nhân khác, nhưng họ hoàn toàn không có quyền chiếm hữu và định đoạt. Nhờ 2 quyền trên, tài sản sở hữu mới có thể thoả mãn nhu cầu sử dụng của chủ sở hữu, hoặc sinh lợi, và luôn được bảo tồn.
Ở những quốc gia xây dựng trên nền tảng kinh tế thị trường, dưới góc độ nhân quyền, sở hữu được coi là quyền cơ bản của con người, nghĩa là “tạo hóa cho họ những quyền đó, không ai, (nhà nước gì), có thể bác bỏ được“. Về mặt kinh tế, không có quyền sở hữu, không thể mua bán, tài sản không thể sinh lợi, không còn cả khái niệm lợi nhuận lẫn nền kinh tế thị trường, bởi mua bán được định nghĩa là chuyển quyền sở hữu từ người bán sang người mua. Về mặt xã hội, xuất phát từ sở hữu gắn với trách nhiệm, ở các quốc gia đã phát triển, tài sản cho tặng thừa kế đều bị đánh thuế, tỷ phú sở hữu hàng triệu thậm chí tỷ đô la lãi mỗi năm có thể phải đóng thuế thu nhập tới chừng nửa số đó, còn phải đóng tiếp mọi khoản bảo hiểm cho tài sản của mình, và có thể gánh tới nửa phí bảo hiểm cho người lao động của họ, để san sẻ bảo đảm cuộc sống của người làm thuê chỉ đủ khả năng đóng chừng 1 nửa bảo hiểm an sinh cho mình. Sở hữu đất, dù ai sử dụng hay bỏ hoang, hàng tháng còn phải đóng tiền thuế đất, phí thoát nước mưa, phí thuê cắt cỏ, dọn tuyết, phí bảo hiểm bồi thường thiệt hại khi ngộ nhỡ có người qua đó bị tai nạn…, nhiều tới mức tính ra như ở Đức chỉ cần sau dăm bảy chục năm bỏ hoang, tiền bán đất không bù đủ. Nghĩa là sở hữu không phải chỉ có mỗi lợi, mà có thể bị thiệt hại bởi trách nhiệm; nếu không đủ khả năng gánh chịu, không thể sở hữu. Nước Đức không thiếu chủ đất từ chối quyền sở hữu bằng cách bán 1 Euro hoặc giao lại nhà nước để khỏi đóng phí tổn theo trách nhiệm. Với tư cách là quyền cơ bản, sở hữu trong nền kinh tế thị trường, vì vậy, vừa là mục đích nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng, vừa là động lực, nền tảng kinh doanh sinh lợi, giàu có cá nhân, và thịnh vượng quốc gia, phải được luật pháp bảo đảm. Xuất phát từ đó, quyền sở hữu (bao gồm cả đất đai), được nhà nước họ mặc nhiên thừa nhận, như bất kỳ quyền cơ bản nào, vốn được họ coi là giá trị phổ quát của nhân loại, không thay đổi bởi đảng cầm quyền, nói cách khác không mang tính chính trị; Hiến pháp, vì vậy, không nhất thiết phải quy định chi tiết, có thể chỉ ở 1 câu, như Đức quy định tại Chương I Quyền cơ bản, Điều 14, khoản 1, câu 1: “Sở hữu và quyền thừa kế được bảo đảm“. Thậm chí có Hiến pháp chỉ đưa ra tình huống ngoại trừ nhà nước được phép can thiệp, còn người dân được hoàn toàn tự do thực hiện quyền sở hữu của mình, như Hiến pháp Mỹ quy định tại Tu Chính án V, câu cuối cùng: “Sở hữu tư nhân không được phép chiếm đoạt vì mục đích công, nếu không được bồi thường thoả đáng“, mà không cần hiến định trực tiếp nó như Đức.

Đối lập với nền kinh tế thị trường theo đuổi mục đích lợi nhuận, nền kinh tế quản lý tập trung được thiết lập ở khối các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây, hay ở những nước như Liby, hoặc “nhị nguyên“ như Nam Tư cũ, nhằm mục đích hoàn thành kế hoạch nhà nước, đều phủ nhận sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, đất đai, và thay thế nó bằng 2 hình thức sở hữu cơ bản, gồm sở hữu của nhà nước được gọi là sở hữu toàn dân, và sở hữu của hợp tác xã hay các tổ chức xã hội liên kết kinh doanh được gọi là sở hữu tập thể; trong đó, đất đai nhất thiết thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước quản lý cấp phát như ngân sách, theo hệ thống cấp chính quyền. Hai hình thức sở hữu cơ bản trên, ở khối các nước Xã hội Chủ nghĩa được gọi chung là Sở hữu Xã hội Chủ nghĩa. Cụ thể, ở CHDC Đức, chúng được hiến định tại chương 2, từ điều 9 tới điều 13, Hiến pháp 1973. Hiến pháp Liên xô 1977, chúng được quy định chi tiết tại chương 2, rất cụ thể: Điều 10 hiến định: Sở hữu Xã hội Chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bao gồm sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể hợp tác xã hình thành nền tảng kinh tế quốc dân. Điều 11: Sở hữu nhà nước là của chung toàn dân. Đất đai thuộc sở hữu nhà nước. Điều 12: Đất đai được giao cho các tổ chức kinh tế sử dụng miễn phí lâu dài. Điều 13: Cho phép công dân sử dụng đất đai để làm kinh tế phụ, vườn tược, hay làm nhà riêng theo luật định. Tài sản do cá nhân sở hữu hay được quyền sử dụng, không được phép đem lại thu nhập mà không do lao động của mình làm ra (tức không được kinh doanh), hay sử dụng nó làm thiệt hại lợi ích của tập thể, nhà nước.
Như vậy, khái niệm quyền sở hữu đất đai ở các nước quản lý kinh tế tập trung, đối với cá nhân, doanh nghiệp, hay bất cứ tổ chức nào sử dụng nó, đều bị phủ định đã đành, nhưng đối với nhà nước cũng không cùng nội hàm với khái niệm đó trong nền kinh tế thị trường, bởi không thể tranh chấp, kiện tụng về nó, không ai chịu trách nhiệm pháp lý trước phán xét của toà án khi gây thiệt hại hay bị thiệt hại, không được mua bán, không sinh lợi, không thừa kế… và chỉ áp dụng riêng cho những quốc gia đó, nên không còn là một khái niệm pháp lý, trở thành một phạm trù. Cũng chính vì vậy, nó hoàn toàn phù hợp với nền kinh tế theo đuổi mục đích chính trị, nhằm xoá bỏ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất được Mác cho là nguồn gốc bóc lột giá trị thặng dư, gây bất công, phân chia giai cấp, tư sản và vô sản, với kỳ vọng tạo dựng mới một nền kinh tế phát triển nhất, một xã hội xây dựng trên đó, hoàn toàn ưu việt, tự do, bình đẳng, bác ái, không kẻ giàu người nghèo vốn luôn là lý tưởng, khát vọng muôn đời của nhân loại.
II. Sửa Hiến pháp về quyền sở hữu và đất đai?
Năm 1990, Liên Xô sửa Hiến pháp. Điều 10 cũ quy định quyền sở hữu Xã hội Chủ nghĩa vốn mang tính chính trị, được thay thế bằng quyền sở hữu pháp lý: Sở hữu công dân, sở hữu của doanh nghiệp, tổ chức, và sở hữu nhà nước, được nhà nước bảo đảm, tương tự điều 14 Hiến pháp CHLB Đức (xem bài Hiến định Quyền sở hữu đất đai ra sao, trên cơ sở nào ?). Bản thân sở hữu nhà nước được pháp lý hoá bằng Điều 13 mới, chia thành sở hữu các cấp chính quyền từ trung ương tới điạ phương. Để hình thành sở hữu doanh nghiệp, Điều 12 mới cho phép chuyển đổi từ sở hữu nhà nước, nghĩa là tư nhân hoá ngược với quá trình quốc hữu hoá và tập thể hoá thời khởi đầu chính quyền Xô Viết. Riêng đất đai vẫn giữ nguyên của toàn dân, nhưng cụ thể hơn trước, có cơ quan chịu trách nhiệm (chứ không phải cá nhân đại diện pháp lý, như trong nền kinh tế thị trường): Quyền định đoạt được giao cho cơ quan lập pháp tối cao Liên bang lúc đó (gồm 750 đại biểu quốc hội, 750 đại biểu cho các nước thành viên và 750 đại diện cho Đảng, Công đoàn và Đoàn thanh niên), quyền sử dụng được giao cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Để có thể mua bán nó, điều 11 mới, xác lập quyền công dân sử dụng đất đai suốt đời và được thừa kế, nghĩa là chuyển một phần nội hàm khái niệm quyền định đoạt sang khái niệm quyền sử dụng, mâu thuẫn với 2 khái niệm đó vốn đã được định nghĩa chặt chẽ trong hệ thống khoa học pháp lý hiện có. Hệ lụy, khó tránh khỏi thực thi pháp luật trong thực tế và áp dụng luật trong xét xử không thể nhất quán, tùy thuộc nhận thức và lợi ích.
Với các điều khoản Hiến pháp thay đổi trên, Liên Xô hy vọng có thể phát triển nền kinh tế thị trường trong khuôn khổ mô hình quản lý kinh tế tập trung, để cứu vãn nền kinh tế đã đứng bên bờ vực phá sản với khủng hoảng thiếu trầm trọng toàn khối Xã hội Chủ nghĩa lúc đó.
So với Hiến pháp CHLB Đức hay Mỹ, cải cách Hiến pháp Liên Xô nói trên mới chỉ tạo dựng được 1 nửa nền tảng kinh tế thị trường, nhờ đó vượt qua được khủng hoảng thiếu, nhưng nhà nước vẫn giữ nguyên vai trò điều hành kinh tế theo kế hoạch, kiêm chủ đất, tạo nên mâu thuẫn bất khả kháng giữa mô hình quản lý kinh tế tập trung điều hành trực tiếp bởi nhà nước với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chạy theo lợi nhuận nhưng không thể chế tài trách nhiệm sở hữu thích ứng. Nhiều học giả cho cải cách đó là nhảy 2 bước qua một cái hố, nếu sâu chắc chắn rớt không lên nổi. Năm 1991, Liên Xô sụp đổ, do vậy Hiến pháp Liên Xô sửa đổi 1990 chưa kịp chứng minh liệu cứu được bất ổn quyền sở hữu lẫn đất đai đã bùng phát dữ dội trong thời gian đó hay không.
Hiến pháp Nga 1993, đã bù đắp được tiếp một nửa nền tảng thiếu hụt trong Hiến pháp Liên xô 1990, khoản 2 của điều 8 và điều 9, điều 35, thừa nhận mọi hình thức sở hữu, cả đất đai, và nhà nước bảo đảm quyền đó. Điều 36 quy định quyền sở hữu tư nhân đất đai kèm theo trách nhiệm chủ sở hữu. Đất đai đi dần vào quỹ đaọ của nền kinh tế thị trường, lẽ dĩ nhiên không tránh khỏi nhiều vấn đề nảy sinh bất khả kháng của chính quá trình tư nhân hoá công sản.
Còn Đông Đức sát nhập vào Tây Đức tuân thủ Hiến pháp CHLB Đức, chấm dứt 40 năm nền kinh tế quản lý tập trung, không bị bất ổn đất đai tác động kéo dài như Liên Xô, Trung Quốc. Trong 5 năm, từ 1990-1994, các doanh nghiệp nhà nước Đông Đức, kèm tài sản lẫn đất đai nó sử dụng, hoặc được tư nhân hoá, hoặc được cổ phần hoá, hoặc được cơ cấu lại, hoặc đóng cửa, thông qua Cơ quan ủy thác tài sản Treuhandanstalt (THA) do chính phủ thành lập, nhưng hoàn toàn độc lập, thực hiện chức năng quy định chi tiết tại Luật Ủy thác, và Luật chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước Đông Đức thành doanh nghiệp cổ phần, trách nhiệm hữu hạn… THA ra đời quản lý tổng số vốn chừng 600 tỷ DM, (tương đương 300 tỷ Euro hiện nay), của chừng 8000 doanh nghiệp với 4 triệu lao động, chưa kể 1,4 triệu hekta đất nông lâm nghiệp.
Cũng với cách của Liên Xô, Trung Quốc sửa đổi Hiến pháp khởi đầu còn sớm hơn từ những năm 1982 và sửa tiếp thêm 4 lượt vào năm1988, 1993, 1999 và 2004, để đạt tới đích hiện nay ít nhiều tương tự Liên Xô, thừa nhận các hình thức sở hữu; đất đai được quyền sử dụng kinh doanh lâu dài, được quyền thừa kế, nhưng vẫn trên “nền tảng sở hữu Xã hội Chủ nghĩa, do nhà nước điều hành“. Đất đai Trung Quốc hiện bất ổn và xung đột ngày một dữ dội, tới mức đã vượt ra khỏi phạm vi đất đai, dân chúng từ bỏ bộ máy chính quyền điạ phương cũ, bầu chủ tịch mới cho mình như ở Ô Khảm vừa qua. Hiến pháp Việt Nam năm 1992, nếu đối chiếu với Hiến pháp Liên Xô năm 1990, Trung Quốc năm 1982 sau sửa đổi, trên tinh thần cũng có thể coi như họ, tạo lập được một nửa tiền đề của nền kinh tế thị trường: Điều 15 thừa nhận sở hữu tư nhân và thành phần kinh tế đó như điều 10 của Liên Xô, điều 6 sửa đổi của Trung Quốc. Cũng tương tự như vậy, khi ở ta điều 17 quy định, đất đai… đều thuộc sở hữu toàn dân, điều 19 quy định kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, điều 18, tổ chức, cá nhân được quyền sử dụng đất ổn định lâu dài và chuyển nhượng nó. Nửa tiền đề còn lại của nền kinh tế thị trường tách nhà nước ra khỏi hoạt động kinh doanh, ra khỏi chủ sở hữu đất đai toàn dân, cũng tương tự như họ, không được đưa vào hiến pháp, vẫn giữ nguyên mô hình cơ bản của nền kinh tế quản lý tập trung. Hệ quả, mâu thuẫn bất khả kháng giữa mô hình quản lý kinh tế tập trung điều hành trực tiếp bởi nhà nước, với mục đích thực tế của nó chạy theo lợi nhuận không được chế tài trách nhiệm sở hữu thích ứng, đặc biệt là sở hữu đất đai, diễn ra ở Liên Xô, Trung Quốc, đang lặp lại với Hiến pháp nước ta năm 1992, chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân tạo nên bất ổn lẫn xung đột đất đai trầm trọng lâu nay, sẽ không bao giờ giải quyết nổi, nếu không bắt đầu từ Hiến pháp. Nhưng bắt đầu như thế nào?

Nguồn: TẠP CHÍ TIA SÁNG

Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2012

LUẬT ĐẤT ĐAI: PHẢI SỬA TỪ TƯ DUY

Luật Đất đai đã được sửa đổi nhiều lần (1998, 2001, 2003) nhưng những bất cập hầu như vẫn còn nguyên. Đó là do lâu nay ta chỉ tập trung sửa ngọn, sửa những vấn đề mang tính kỹ thuật trong quản lý, chưa sửa tới gốc. Muốn thật sự sửa luật, phải sửa từ tư duy, từ quan điểm, chính sách.
Sửa Luật Đất đai không phải bây giờ mới cấp bách
Việc sửa Luật Đất đai đã được Quốc hội coi là cấp bách ít ra từ năm 2008, nhưng rồi bị hoãn, phải tới năm 2011 công việc mới tái khởi động bằng việc tổng kết thi hành luật. Việc sửa luật chỉ có thể bắt đầu từ năm 2012, chắc khó ban hành được trước năm 2013, khi thời hạn giao đất 20 năm theo Luật Đất đai 1993 đến ngày đáo hạn.
Cần thấy, sau rối ren ở Quỳnh Phụ, Thái Bình (1996-1997), luật cũng đã sửa nhiều lần (1998, 2001, 2003), vậy mà những bất cập hầu như vẫn còn nguyên. Đất đai vẫn là lĩnh vực tập trung khiếu kiện và tham nhũng, mà đỉnh điểm là vụ Tiên Lãng đang được xử lý. Tình hình chuyển biến không phải tốt lên, mà ngày càng xấu hơn! Đó là do lâu nay ta chỉ tập trung sửa ngọn: những vấn đề mang tính kỹ thuật trong quản lý, chưa sửa tới gốc. Đó là tư duy vẫn theo thể chế sở hữu toàn dân về đất đai, vốn chỉ thích hợp với kinh tế công hữu.
Đa sở hữu về đất đai đã nảy sinh từ Hiến pháp 1992
Hiến pháp 1992 có hai điểm mới khác hẳn so với Hiến pháp 1980.  Thứ nhất, “Nhà nước giao đất cho tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”, trong khi Hiến pháp 1980 chỉ cho người đang sử dụng đất được tiếp tục sử dụng. Thứ hai là “tổ chức, cá nhân được giao đất được chuyển quyền sử dụng đất”, trong khi Hiến pháp 1980 không đề cập tới vấn đề này, tức là họ không có quyền đó. Hai điểm mới này là mầm của tư duy đất đa sở hữu.
Theo Hiến pháp 1992, quyền sử dụng và chuyển nhượng đất, những quyền cơ bản nhất của người sở hữu, đã trở thành quyền của tổ chức, cá nhân được giao sử dụng đất. Có thể gọi đó là thực quyền. Chủ sở hữu (toàn dân) không còn những quyền này thì quyền sở hữu chỉ còn danh nghĩa, trở thành hư quyền. Nhưng Hiến pháp 1992 cũng quy định Nhà nước “thống nhất quản lý theo quy hoạch và pháp luật”, như đã ghi trong Hiến pháp 1980. Chính điểm mập mờ này tạo nên ngộ nhận, cho rằng quyền quản lý đất của Nhà nước vẫn như thời tập trung bao cấp, mà không thấy rằng chức năng quản lý của Nhà nước đã có thay đổi căn bản, đã chuyển từ vừa quản lý nhà nước, vừa quản lý kinh doanh sang chỉ quản lý nhà nước, tức là chỉ quản lý vĩ mô, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh tế của các tổ chức, cá nhân đã là các chủ thể của nền kinh tế đa sở hữu.

Cụ thể hóa Hiến pháp 1992, quyền Luật Đất đai 1993 có hai điểm quan trọng. Một, đã định rõ nghĩa rộng của khái niệm quyền sử dụng đất, không chỉ là sử dụng công năng của đất, mà cả chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế, góp vốn. Như vậy quyền của người sử dụng đất cũng chính là những thực quyền của người sở hữu đất theo cách hiểu truyền thống. Hai, tổ chức, cá nhân được giao đất phải nộp tiền sử dụng đất. Như vậy đã xuất hiện quan hệ mua bán: muốn được giao đất sử dụng, tổ chức, cá nhân phải trả tiền.
Tiền sử dụng đất thực chất là tiền mua quyền sử dụng đất trả cho Nhà nước, thể hiện rõ nhất khi nó được quy định sát với giá thị trường. Đã có đủ cơ sở để nói về mua bán và sở hữu quyền sử dụng đất (một cách nói vòng vo để tránh phải nói sở hữu đất). Tuy nhiên do tư duy sở hữu đất toàn dân vẫn là tư duy chủ đạo, do ngộ nhận đặc quyền quản lý đất của Nhà nước như đã nêu, Luật Đất đai 1993 và cả Luật Đất đai 2003 chỉ cụ thể hóa tư duy đa sở hữu về đất đai bằng hai khái niệm nói trên, tuy có vẻ là tư duy kinh tế thị trường, nhưng chưa đủ rõ ràng để vận hành trong thực tế quản lý. Cho nên nhìn tổng thể, Luật Đất đai dù có sửa đi sửa lại cơ bản vẫn là cơ chế tập trung bao cấp, vẫn nặng tính chất xin-cho như thời trước đổi mới.
Muốn sửa căn bản luật phải xác lập thể chế đất đa sở hữu
Đổi mới tư duy kinh tế không phải là vấn đề mới. Đại hội Đảng VI (1986) đã đề xướng “đổi mới kinh tế” trên cơ sở xác lập tư duy đa sở hữu. Chỉ trong khoảng 10 năm, nền kinh tế nước ta đã chuyển biến căn bản theo hướng đi lên như đã thấy. Tiếc rằng tư duy đất đai đã không đổi mới kịp tư duy kinh tế.
Có lẽ không thừa nếu nhắc lại lịch sử hình thành thể chế sở hữu đất toàn dân ở nước ta. Theo lẽ tự nhiên và thường đã ghi thành pháp luật, sở hữu có nguồn gốc từ đầu tư. Thời xa xưa, muốn sở hữu đất trồng trọt, chăn nuôi, người ta phải đầu tư khai hoang bằng sức lao động. Thời nay, đầu tư chủ yếu bằng vốn. Nhưng ở nước ta, thể chế sở hữu toàn dân về đất đai được xác lập không phải bằng đầu tư, mà bằng chính sách xóa bỏ kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể, chuyển thành kinh tế quốc doanh và tập thể, thực tế công hữu hóa nền kinh tế và rồi hợp thức hóa bằng Hiến pháp 1980. Có nghĩa là thể chế sở hữu đất toàn dân ở nước ta được xác lập bằng ý chí, bằng chính sách và pháp luật.
Nay với tư duy đổi mới, bằng sửa đổi chính sách và pháp luật, ta hoàn toàn có thể chuyển thành công thể chế đất đai thuộc sở hữu toàn dân thành đa sở hữu. Sự chuyển đổi này có lợi về nhiều mặt, không làm ai thiệt hại, họa chăng chỉ các quan chức không liêm chính mất đi cơ hội tham nhũng. Như đã phân tích, quyền sở hữu đất của toàn dân, thực ra chỉ là hư quyền, bỏ đi thì đất nước chỉ tốt đẹp lên mà thôi.
Đa sở hữu không chỉ là tư hữu
Điều kiện phát sinh và tồn tại của đa sở hữu là có tư hữu, có công hữu, có sở hữu cộng đồng (đoàn thể, tôn giáo, họ tộc…). Sự tồn tại đồng thời nhiều loại sở hữu như thế chính là thực tế lịch sử tiến hóa lâu dài của loài người. Những nước phát triển nhất thế giới hiện nay không thấy nước nào áp dụng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
Cần thấy rằng một khi chuyển sang đa sở hữu, một loạt vấn đề tốn công, tốn giấy mực bao năm nay như giao, cho thuê, thu hồi, định giá đất… tự nhiên biến mất khỏi chương trình làm việc của các cấp chính quyền. Thời gian và một số lượng lớn nhân sự của bộ máy nhà nước không còn bị cuốn hút vào những chuyện rối ren về đất. Bởi những công việc đó là của tổ chức, của cá nhân, của thị trường, họ biết thương lượng ổn thỏa với nhau.
Cũng không lo Nhà nước không có đất cho các công trình lợi ích quốc gia. Thể chế đa sở hữu không loại trừ quyền Nhà nước trưng thu, trưng mua đất (và các tài sản khác) vì lợi ích quốc gia, nhưng thủ tục phải minh bạch và không thể lạm dụng. Điều này các nước phát triển đã làm được, ta hoàn toàn có thể làm.
Cũng không sợ nếu người sử dụng đất có quyền sở hữu đất thì sẽ tạo điều kiện cho người giàu tích tụ đất, khoét sâu hố phân cách giàu nghèo. Thực tế ở ĐBSCL và nhiều nơi cho thấy chỉ có người có vốn, lại mê và biết kinh doanh nông nghiệp mới tích tụ được đất. Và nếu họ thực hiện được thì sản xuất sẽ tăng trưởng cao, đất đai được sử dụng hiệu quả hơn, công ăn việc làm sẽ nhiều hơn, thu nhập của người mất đất cũng cao hơn là sản xuất trong nghèo nàn và trên những mảnh đất manh mún.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, phải áp dụng thể chế đất đai đa sở hữu mới củng cố được lòng tin của dân về quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài, chặn đứng các vụ lạm dụng thu hồi đất do đủ mọi cấp chính quyền tiến hành với đủ lý do chính đáng và không chính đáng, gây ra các khiếu kiện đông người, làm đau đầu mọi cấp, mọi ngành. Như vậy người dân mới an tâm đầu tư để đất sinh lợi nhiều hơn, lại không phải khấu hao, giảm được chi phí sản xuất. Nó cũng bảo đảm hiện thực hóa các quyền chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, góp vốn đã ghi trong luật.

Nguồn: THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN

Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2012

Công khai, minh bạch để bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất

Thu hồi đất (THĐ) không chỉ là một phương thức thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước mà còn là giải pháp đáp ứng các nhu cầu sử dụng đất (SDĐ) của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Trên thực tế, THĐ là hoạt động khó khăn, phức tạp và dễ phát sinh tham nhũng, tranh chấp, khiếu kiện, bởi hoạt động này trực tiếp đụng chạm đến lợi ích của nhiều chủ thể khác nhau: Nhà nước, xã hội, lợi ích của người bị thu hồi đất và lợi ích của người được hưởng lợi từ việc Nhà nước thu hồi đất… Trong nhiều trường hợp, người bị THĐ không đồng thuận với việc thu hồi và phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (TĐC) do cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do sự thiếu công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện việc THĐ.
1. Sự công khai, minh bạch trong các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
a. Ưu điểm trong các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Nội dung các quy định về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước THĐ (sau đây gọi là các quy định về bồi thường, giải phóng mặt bằng - GPMB) nhìn dưới góc độ công khai, minh bạch cho thấy, lĩnh vực pháp luật này đang có những ưu điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, nội dung các quy định về bồi thường, GPMB đã thể hiện tương đối rõ nét tính cụ thể, rõ ràng, rành mạch:
- Luật Đất đai năm 2003 (LĐĐ 2003) quy định cụ thể những trường hợp Nhà nước THĐ do lỗi của người SDĐ gây ra hoặc những trường hợp THĐ vì lý do đương nhiên như đất giao sử dụng có thời hạn mà không được Nhà nước gia hạn khi hết thời hạn SDĐ; người SDĐ chết mà không có người thừa kế tiếp tục SDĐ… tại Điều 38 và những trường hợp THĐ vì lý do khách quan, đó là trường hợp Nhà nước THĐ vì mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và mục đích phát triển kinh tế tại Điều 39. Trên cơ sở đó, Nhà nước thực thi chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC không giống nhau đối với các trường hợp THĐ: (i) trường hợp THĐ sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và mục đích phát triển kinh tế thì người bị THĐ được Nhà nước bồi thường về đất và bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi. Đối với trường hợp thu hồi đất ở (THĐƠ), người bị THĐ ngoài việc được Nhà nước bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất bị thu hồi còn được hưởng chính sách TĐC. Trường hợp THĐ nông nghiệp của người trực tiếp sản xuất nông nghiệp mà không có đất để giao cho họ tiếp tục sản xuất, người bị THĐ nông nghiệp ngoài việc được bồi thường về đất và tài sản trên đất còn được Nhà nước hỗ trợ trong việc ổn định cuộc sống, đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp; (ii) trường hợp THĐ do lỗi của người SDĐ gây ra thì người bị THĐ không được bồi thường về đất mà chỉ được bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi.
- LĐĐ 2003 quy định cụ thể thời hạn thông báo cho người bị THĐ biết về quyết định THĐ nhằm tạo điều kiện để họ chủ động trong việc thu hoạch mùa màng, thu dọn đồ đạc, di chuyển chỗ ở để sớm bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư “trước khi THĐ, chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước (CQNN) có thẩm quyền phải thông báo cho người bị THĐ biết lý do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, GPMB, TĐC” (khoản 2 Điều 39).
- LĐĐ 2003 quy định cụ thể các trường hợp Nhà nước THĐ để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế và các trường hợp SDĐ vào mục đích sản xuất - kinh doanh, chủ dự án phải thỏa thuận với người SDĐ về việc nhận chuyển nhượng quyền SDĐ: “1. Nhà nước thực hiện việc THĐ để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế trong trường hợp đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các dự án đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ …; 2. Đối với dự án sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch SDĐ đã được xét duyệt thì nhà đầu tư được nhận chuyển nhượng, thuê quyền SDĐ, nhận góp vốn bằng quyền SDĐ của các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân mà không phải thực hiện thủ tục THĐ” (Điều 40).
- LĐĐ 2003 quy định cụ thể chức năng quản lý quỹ đất thu hồi đã thực hiện bồi thường, GPMB nhưng chưa có dự án đầu tư; cụ thể: “1. Nhà nước quyết định THĐ và giao đất cho tổ chức phát triển quỹ đất do Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập để thực hiện việc THĐ, bồi thường, GPMB và trực tiếp quản lý quỹ đất đã thu hồi sau khi quy hoạch, kế hoạch SDĐ được công bố mà chưa có dự án đầu tư” (Điều 41). Đối với đất đã thu hồi thuộc khu vực nông thôn được giao cho UBND xã quản lý. Việc quy định minh bạch vấn đề này góp phần vào việc tạo lập quỹ đất “sạch” nhằm đáp ứng nhu cầu SDĐ của các doanh nghiệp và nhà đầu tư.
- LĐĐ 2003 quy định cụ thể điều kiện được bồi thường khi Nhà nước THĐ tại khoản 1 Điều 42. Điều này góp phần làm giảm những tranh chấp, khiếu kiện không cần thiết xung quanh việc bồi thường khi Nhà nước THĐ.
- LĐĐ 2003 quy định rõ nguyên tắc: “Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền SDĐ tại thời điểm có quyết định thu hồi” (khoản 2 Điều 42). Quy định này nhằm ngăn ngừa tình trạng người bị THĐ đòi hỏi giá bồi thường quá cao do giá trị của đất đai tăng lên từ việc chuyển mục đích SDĐ hoặc do sự đầu tư của Nhà nước mang lại.
- Pháp luật đất đai hiện hành quy định rõ ràng trách nhiệm của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc lập và thực hiện các dự án TĐC trước khi THĐ để bồi thường bằng nhà ở, đất ở cho người bị THĐƠ mà phải di chuyển chỗ ở. Khu TĐC được quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ (khoản 3 Điều 42 LĐĐ 2003).
Thứ hai, các quy định hiện hành về bồi thường, GPMB được công bố rộng rãi cho mọi người dân biết thông qua những hình thức như: (i) công bố toàn văn nội dung LĐĐ 2003 trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, truyền hình; trên cổng thông tin điện tử của Chính phủ, của Bộ Tài nguyên và Môi trường và trên cổng thông tin điện tử của UBND cấp tỉnh v.v..; (ii) tổ chức các lớp tập huấn, tuyên truyền về LĐĐ 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành; (iii) tổ chức các cuộc thi tìm hiểu LĐĐ 2003, phát tờ rơi tuyên truyền về nội dung những chế định cụ thể của LĐĐ 2003 v.v..; (iv) lồng ghép việc công bố các quy định về bồi thường, GPMB khi Nhà nước THĐ vào công tác tư vấn, trợ giúp pháp lý, công tác hòa giải, giải quyết tranh chấp đất đai, v.v.. đã tạo điều kiện cho người dân dễ dàng tiếp cận, tra cứu, tìm hiểu.
Thứ ba, các quy định về bồi thường, GPMB của LĐĐ 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã dự liệu tương đối toàn diện các trường hợp phát sinh từ việc Nhà nước THĐ gây ra. Điều này thể hiện, pháp luật hiện hành đã quy định cụ thể các trường hợp bồi thường về đất và bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất; những trường hợp không được bồi thường về đất mà chỉ được bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất và các trường hợp THĐ không được bồi thường cũng như những quy định về TĐC, hỗ trợ ổn định cuộc sống và đào tạo chuyển đổi nghề cho người nông dân bị THĐ nông nghiệp không có đất để sản xuất, v.v..
b. Những hạn chế
 Bên cạnh những thành công về tính công khai, minh bạch trong các quy định hiện hành về bồi thường, GPMB, lĩnh vực pháp luật này vẫn bộc lộ một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất, khoản 2 Điều 42 LĐĐ 2003 quy định thời điểm bồi thường cho người bị THĐ là thời điểm có quyết định THĐ. Trên thực tế, việc áp dụng quy định này đã bộc lộ một số điểm chưa hợp lý: một là, trong việc bồi thường, giải tỏa, đa số các khiếu nại của người dân đều liên quan đến giá đất, mà giá đất được bồi thường phải theo phương án do CQNN phê duyệt khi có quyết định THĐ, nhưng từ lúc có quyết định THĐ cho đến khi cơ quan chức năng hoàn thành thủ tục để người dân nhận tiền bồi thường là quá dài, có khi là ba năm hoặc năm năm. Khi đó, tại thời điểm nhận tiền bồi thường, giá đất đã khác xa so với giá đất tại thời điểm có quyết định THĐ (do giá đất và cả chính sách bồi thường về đất đai đã thay đổi, đồng tiền giảm giá trị, cơ hội đầu tư kinh doanh hay cơ hội có nhà ở của người dân cũng bị mất…). Vì vậy, người bị THĐ luôn chịu thiệt thòi. Hai là, việc THĐ nông nghiệp chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp (đặc biệt là xây dựng các khu đô thị, xây dựng khu nhà ở thương mại) thì người bị THĐ chỉ được bồi thường theo giá đất nông nghiệp (thông thường giá đất này rất thấp, chỉ vài chục ngàn đến vài trăm ngàn đồng/m2). Sau đó, diện tích đất này được giao cho các công ty đầu tư, kinh doanh xây dựng nhà ở. Họ tiến hành san lấp nền và xây dựng nhà để bán, mỗi m2 đất lúc này có giá trị lên đến vài triệu hoặc vài chục triệu đồng. Người bị THĐ có sự so sánh về sự chênh lệch giữa giá đất mình được bồi thường với giá đất mà các chủ đầu tư bán cho người mua nhà, cho rằng dường như mình bị “ăn cướp” đất và họ không được lợi gì từ việc bị THĐ, nên đã phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo dài gây ảnh hưởng đến tiến độ thực thi các dự án.
Thứ hai, Điều 40 LĐĐ 2003 quy định Nhà nước thực hiện việc THĐ để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế trong trường hợp đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các dự án đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ. Đối với dự án sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch SDĐ đã được xét duyệt thì nhà đầu tư được nhận chuyển nhượng, thuê quyền SDĐ, nhận góp vốn bằng quyền SDĐ của các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân mà không phải thực hiện thủ tục THĐ. Như vậy, theo pháp luật hiện hành, có hai cơ chế THĐ được thực thi: một là, cơ chế hành chính, Nhà nước thực hiện THĐ sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế đối với các dự án đầu tư lớn; hai là, cơ chế thỏa thuận (cơ chế thị trường) do nhà đầu tư tự thỏa thuận với người SDĐ để có được đất thực hiện dự án sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch SDĐ đã được xét duyệt. Thực tế cho thấy việc thực hiện song song hai cơ chế THĐ này đưa đến những tình huống rất khó giải quyết sau: (i) việc thực hiện cơ chế thỏa thuận gặp rất nhiều khó khăn do người SDĐ đưa ra những yêu cầu về giá bồi thường quá cao so với khả năng tài chính của chủ đầu tư. Kết quả là nhiều dự án không thể triển khai thực hiện do không thỏa thuận được giá bồi thường và người SDĐ không bàn giao đất cho chủ đầu tư. Để có thể tiếp cận được đất đai, chủ đầu tư có quyền đề nghị Nhà nước hỗ trợ trong việc THĐ hay không? Giải pháp xử lý tình huống này chưa được quy định cụ thể trong LĐĐ 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành; (ii) đối với những mảnh đất liền kề nhau, có mảnh đất bị Nhà nước thu hồi để sử dụng vào mục đích công cộng, lợi ích quốc gia…, người bị THĐ được bồi thường theo giá đất do UBND cấp tỉnh quy định tại thời điểm thu hồi mà thông thường giá đất này lại thấp hơn nhiều so với giá đất hình thành trên thị trường. Ngược lại, với mảnh đất liền kề, khi chủ đầu tư lấy đất để thực hiện dự án sản xuất, kinh doanh, người SDĐ được chủ đầu tư bồi thường theo giá đất thị trường, và giá trị bồi thường cao hơn nhiều so với các chủ SDĐ bị Nhà nước THĐ. Từ đó phát sinh sự so bì, khiếu kiện. 
Thứ ba, giá đất do Nhà nước xác định là căn cứ để tính bồi thường khi Nhà nước THĐ, nhưng khi triển khai lại không nhận được sự đồng thuận của người bị THĐ, do giá đất Nhà nước xác định thường thấp hơn nhiều so với giá chuyển nhượng quyền SDĐ trên thị trường. Để khắc phục tình trạng này, Điều 56 LĐĐ 2003 đã quy định các nguyên tắc trong việc định giá đất của Nhà nước. Tiếp đó, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 quy định bổ sung về quy hoạch SDĐ, giá đất, THĐ, bồi thường, hỗ trợ và TĐC (Nghị định số 69) quy định khi Nhà nước giao đất có thu tiền SDĐ không thông qua hình thức đấu giá quyền SDĐ hoặc đấu thầu dự án có SDĐ, cho thuê đất… mà giá đất do UBND cấp tỉnh quy định tại thời điểm giao đất, cho thuê đất… chưa sát với giá chuyển nhượng quyền SDĐ thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường, thì UBND cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền SDĐ thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể cho phù hợp (Điều 11). Tuy nhiên, việc xác định lại giá đất trong trường hợp này lại không hề đơn giản; bởi lẽ, quy định “… sát với giá chuyển nhượng quyền SDĐ thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường” là một quy định có tính “định tính” mà không mang tính “định lượng”, trong khi đó việc xác định giá đất lại phải căn cứ vào việc định lượng rất cụ thể “sát giá chuyển nhượng quyền SDĐ thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường” là bao nhiêu % thì mới thực hiện được và hiểu thế nào là “thị trường trong điều kiện bình thường”. Đây là những vấn đề không hề đơn giản. Hơn nữa, giá chuyển nhượng quyền SDĐ trên thị trường trong điều kiện bình thường lại mang tính cá biệt và hàm chứa các yếu tố “ảo”. Nó phụ thuộc vào thị trường ở từng khu vực cụ thể và chịu ảnh hưởng của tâm lý, thị hiếu, sở thích v.v.. của từng nhóm dân cư khác nhau trong xã hội. Điều đáng nói là hiện nay, chưa có cơ quan, đơn vị pháp nhân nào khẳng định giá thị trường là bao nhiêu. Trên thực tế, để xác định được giá đất trong trường hợp này, UBND quận Thủ Đức (thành phố Hồ Chí Minh) đã thuê công ty tư vấn về giá đất xác định giá đất căn cứ theo giá chuyển nhượng quyền SDĐ thực tế trên thị trường. Kết quả là doanh nghiệp muốn lấy đất sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh phải nộp một khoản tiền SDĐ quá lớn, vượt quá khả năng tài chính của họ, dẫn đến việc xác định giá đất để tính tiền SDĐ khi giao đất theo Nghị định 69 chưa nhận được sự đồng thuận của các doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh BĐS.
Thứ tư, khoản 3 Điều 42 LĐĐ 2003 quy định đối với trường hợp THĐ mà người SDĐ phải di chuyển chỗ ở thì trước khi THĐ, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng khu TĐC, khu TĐC được quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn thi hành LĐĐ 2003 chưa có quy định hướng dẫn cụ thể thế nào là “có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”. Điều này không chỉ gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện mà còn tạo ra những cách hiểu khác nhau giữa các địa phương khi xây dựng khu TĐC với chất lượng không giống nhau.
2. Thực trạng công khai, minh bạch trong thực thi các quy định về bồi thường, giải phóng mặt bằng
a. Ưu điểm
Việc thực thi các quy định về bồi thường, GPMB dưới khía cạnh công khai, minh bạch trong thời gian qua cho thấy những ưu điểm nổi bật cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của lĩnh vực pháp luật này đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân về LĐĐ 2003 nói chung và các quy định về bồi thường, GPMB nói riêng. Ở tất cả các địa phương đều thành lập Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật do người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp làm Chủ tịch Hội đồng, ngành tư pháp đóng vai trò cơ quan thường trực. Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật đã chỉ đạo, điều phối các hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật đất đai.
Thứ hai, trước khi thực hiện việc THĐ, bồi thường, GPMB, các địa phương đều triển khai công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân hiểu và chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về THĐ. Điều này đã góp phần nâng cao sự đồng thuận của người dân với quyết định THĐ của Nhà nước.   
Thứ ba, trong THĐ, các địa phương đều công khai phương án tổng thể về bồi thường, GPMB tại trụ sở UBND hoặc trên các phương tiện truyền thông để mọi người dân được biết. Hơn nữa, chính quyền cấp cơ sở còn tổ chức nhiều cuộc họp, đối thoại với người dân nhằm tạo điều kiện để họ được bàn bạc, góp ý về phương án bồi thường cũng như lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người bị THĐ. Trên cơ sở đó, CQNN có thẩm quyền kịp thời điều chỉnh, sửa đổi phương án bồi thường, GPMB cho phù hợp.
Tính minh bạch còn được thể ở hiện ở việc đại diện của những người bị THĐ tham gia vào Hội đồng bồi thường, GPMB nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người SDĐ khi Nhà nước THĐ. Ở hầu hết các địa phương, quy trình, thủ tục THĐ, bồi thường, GPMB được công bố công khai để mọi người dân biết và giám sát thực hiện.
Thứ tư, hầu hết mọi tranh chấp, khiếu kiện của người dân liên quan đến việc bồi thường, GPMB đều được các CQNN có thẩm quyền tiếp nhận, giải thích và xử lý kịp thời. Các nguyên tắc công khai, minh bạch, bình đẳng, dân chủ và đúng pháp luật được các CQNN có thẩm quyền tuân thủ nên đã tạo ra sự đồng thuận tương đối cao của người dân.
Thứ năm, bên cạnh việc giải quyết bồi thường cho người bị THĐ, các địa phương còn chú trọng thực hiện những chính sách hỗ trợ, TĐC cho người bị THĐƠ, người bị mất đất sản xuất nhằm giúp họ nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất. Hơn nữa, thông qua việc thi hành pháp luật về bồi thường, GPMB, các cơ quan thực thi đã phát hiện và kiến nghị Nhà nước kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định bất hợp lý, mâu thuẫn, chồng chéo nhằm nâng cao tính công khai, minh bạch của lĩnh vực pháp luật này.
b. Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực thi pháp luật về bồi thường, GPMB xem xét dưới khía cạnh công khai, minh bạch vẫn bộc lộ một số hạn chế cơ bản sau:
Thứ nhất, một số địa phương vẫn chưa thực hiện đúng quy định của LĐĐ 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành về bồi thường, GPMB khi Nhà nước THĐ trong việc xây dựng khu TĐC trước khi THĐƠ. Nói cách khác, vẫn còn tồn tại tình trạng UBND cấp tỉnh ra quyết định THĐƠ trong khi chưa thực hiện việc xây dựng khu TĐC. Điều này gây khó khăn về đời sống cho người dân bị THĐƠ. Hơn nữa, trên thực tế chất lượng của các khu nhà ở TĐC còn kém và bị xuống cấp nghiêm trọng, chưa bảo đảm nguyên tắc “nơi ở mới phải bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ” mà LĐĐ 2003 đã quy định. Thực trạng các khu TĐC ở Dịch Vọng - Cầu Giấy, khu TĐC Đền Lừ - quận Hai Bà Trưng (Hà Nội), v.v..  là những ví dụ điển hình.
Thứ hai, việc xác định giá đất để tính bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước THĐƠ một số địa phương không hợp lý. Giá đất được xác định trong các trường hợp cụ thể thường chỉ bằng 80% khung giá đất do Nhà nước quy định. Điều này làm cho quyền và lợi ích hợp pháp của người SDĐ không được bảo đảm, dẫn đến sự không đồng thuận và phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo dài. Ví dụ, việc THĐ của các hộ dân ở khu vực quy hoạch giải tỏa đường vành đai 3 quận Thanh Xuân để xây dựng đường Khuất Duy Tiến đã bị kéo dài trong nhiều năm mà nguyên nhân chủ yếu do người dân chưa đồng thuận với phương án bồi thường của UBND thành phố Hà Nội. Phải sau nhiều năm giải quyết rốt ráo với nhiều lần điều chỉnh, bổ sung giá bồi thường của UBND thành phố Hà Nội, việc GPMB ở đây mới được giải quyết dứt điểm.
Thứ ba, trong một số trường hợp THĐ nông nghiệp, Hội đồng bồi thường GPMB dường như mới chỉ thực hiện việc bồi thường về đất và bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi mà dường như chưa chú trọng đến việc hỗ trợ, đào tạo, chuyển đổi nghề cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, bị mất đất sản xuất. Điều này khiến sự đồng thuận của người dân đối với việc Nhà nước THĐ không cao. Trường hợp THĐ nông nghiệp ở thị trấn Hồ (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) để triển khai dự án xây dựng khu đô thị là một ví dụ. Do chưa nhất trí với phương án bồi thường, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề, những hộ bị THĐƠ đây vẫn dây dưa trong việc bàn giao mặt bằng; tranh chấp, khiếu kiện xung quanh vấn đề này kéo dài. 
Thứ tư, công tác bồi thường, GPMB chưa giải quyết hiệu quả sự chênh lệch về địa tô được tạo ra từ đất đai do sự chuyển đổi mục đích SDĐ hoặc không do đầu tư của người SDĐ mang lại. Điều này vi phạm nguyên tắc công bằng xã hội, gây ra những bất bình trong nội bộ nhân dân giữa người bị THĐ phải di chuyển chỗ ở với người không bị THĐ hoặc giữa người bị THĐ với doanh nghiệp được hưởng lợi từ việc THĐ. Trường hợp THĐ để xây dựng đường Kim Liên - Ô Chợ Dừa, Hà Nội là một ví dụ tiêu biểu. Trong khi Nhà nước đầu tư hàng trăm triệu đô la Mỹ thông qua việc vay vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản vào công tác bồi thường, GPMB và xây dựng con đường này, hàng trăm hộ dân bị mất nơi ở do bàn giao mặt bằng xây dựng đường phải di chuyển chỗ ở và TĐC tại các khu chung cư, thì ngược lại, hàng trăm hộ gia đình có nhà ở trong ngõ nay trở thành nhà mặt đường. Giá trị bất động sản của họ tăng lên hàng trăm lần, hàng tháng họ còn thu lợi hàng chục triệu đồng qua việc cho thuê nhà. Lợi thế sinh lời từ mảnh đất của họ được tạo ra từ sự đầu tư của Nhà nước, xã hội, nhưng họ lại không phải đóng một khoản tiền nào từ nguồn lợi thu được này vào ngân sách nhà nước. Đây quả là một điều hết sức phi lý.
Thứ năm, vẫn tồn tại một số trường hợp THĐ không công khai, minh bạch. Điều này thể hiện: (i) CQNN có thẩm quyền THĐ không thông báo cho người bị THĐ biết lý do thu hồi, phương án tổng thể về bồi thường, GPMB, thời gian, kế hoạch di chuyển; (ii) người bị THĐ không được bàn bạc, trao đổi về phương án bồi thường, GPMB; (iii) các khiếu nại, thắc mắc của người bị THĐ không được CQNN có thẩm quyền giải quyết thỏa đáng, kịp thời; (iv) quá trình thực hiện bồi thường, GPMB còn vi phạm nguyên tắc công bằng, bình đẳng, đúng pháp luật và còn tồn tại tình trạng nhũng nhiễu, tham nhũng, tiêu cực, cảm tính chủ quan hoặc định kiến ở một bộ phận cán bộ thực thi nhiệm vụ giải quyết bồi thường, v.v.. 

3. Một số giải pháp nhằm nâng cao tính công khai, minh bạch trong các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Để nâng cao tính công khai, minh bạch trong nội dung các quy định về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước THĐ, chúng tôi cho rằng, một số quy định hiện hành cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng sau:
Thứ nhất, bổ sung yếu tố công khai trong nguyên tắc THĐ; theo đó: “Việc THĐ chỉ được thực hiện sau khi quy hoạch SDĐ, kế hoạch SDĐ đã được CQNN có thẩm quyền xét duyệt và công khai”; 
Thứ hai, theo LĐĐ 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nhà nước chỉ thực hiện việc THĐ sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và sử dụng đất vào mục đích phát triển kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt đối với đất nước, còn đối với các dự án phát triển kinh tế khác thì cho phép nhà đầu tư thỏa thuận việc bồi thường với người SDĐ. Tuy nhiên, trên thực tế, việc nhà đầu tư thỏa thuận bồi thường với người SDĐ thường là rất khó thực hiện do những đòi hỏi về giá bồi thường quá cao so với khả năng tài chính của doanh nghiệp. Hơn nữa, việc bồi thường theo giá thỏa thuận sẽ tạo ra sự “so bì” về giá bồi thường giữa trường hợp người bị Nhà nước THĐ với trường hợp doanh nghiệp tự thỏa thuận giá bồi thường với người SDĐ. Điều này tác động làm cho người bị Nhà nước THĐ chậm bàn giao đất để triển khai dự án. Để khắc phục tình trạng này, cần sửa đổi cơ chế THĐ theo hướng quy định Nhà nước THĐ và giao cho Tổ chức Phát triển quỹ đất thực hiện. Việc này sẽ có các lợi ích như: khi Nhà nước thực hiện THĐ, sẽ chuyển toàn bộ địa tô chênh lệch của đất đai vào ngân sách nhà nước thay vì khoản lợi nhuận địa tô này rơi vào tay các nhà đầu tư nếu để họ thỏa thuận bồi thường với người SDĐ như quy định hiện nay; việc giao cho Nhà nước THĐ tức là Nhà nước đảm nhiệm việc chuẩn bị, cung cấp nguồn “đất sạch” cho nhu cầu của các doanh nghiệp. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tiếp cận được với đất đai, không để doanh nghiệp “đối đầu” với người dân trong việc bồi thường, GPMB vốn rất khó khăn, phức tạp trên thực tế.
Thứ ba, cần xã hội hóa việc bồi thường, GPMB thông qua việc xác lập cơ chế pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho việc ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp làm dịch vụ bồi thường, GPMB. Sự ra đời loại hình doanh nghiệp này không chỉ góp phần giảm áp lực cho các cơ quan công quyền trong việc thực hiện bồi thường, GPMB mà còn đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác này.
Thứ tư, cần sửa đổi quy định về thời điểm bồi thường cho phù hợp hơn, cụ thể:
- Nên quy định việc tính giá bồi thường theo thời điểm trả tiền bồi thường trên thực tế.
- Đối với trường hợp THĐ nông nghiệp của nông dân thì ngoài việc họ được bồi thường theo giá đất nông nghiệp tại thời điểm thu hồi, cần quy định một tỷ lệ hỗ trợ để thưởng khuyến khích đối với những người bị THĐ chấp hành nghiêm chỉnh, nhanh chóng việc bàn giao mặt bằng cho các nhà đầu tư. Khoản hỗ trợ này trích từ khoản chênh lệch giữa giá đất bồi thường với giá đất sau khi đã chuyển mục đích SDĐ nông nghiệp. Ví dụ, người bị THĐ nông nghiệp được bồi thường theo giá đất nông nghiệp 200.000 đồng/m2. Sau đó, đất này được giao cho nhà đầu tư xây dựng nhà ở chung cư thương mại và được bán 10 triệu đồng/m2. Khoản thưởng cho người bị THĐ nghiêm chỉnh chấp hành việc bàn giao mặt bằng được trích từ sự chênh lệch giữa 2 loại giá đất này là 9,8 triệu đồng/m2. Có như vậy mới tạo thêm nhiều sự đồng thuận và giảm các khiếu kiện liên quan đến việc bồi thường đất.
- Bổ sung quy định hướng dẫn chi tiết về điều kiện phát triển “bằng hoặc tốt hơn ở nơi cũ” của khu TĐC mới tại khoản 3 Điều 42 LĐĐ 2003.
Thứ năm, bên cạnh các quy định giải quyết vấn đề công ăn việc làm bảo đảm đời sống của người nông dân bị mất đất sản xuất, cần bổ sung quy định về việc thành lập quỹ trợ cấp thất nghiệp, quỹ giải quyết việc làm cho người nông dân bị mất đất nông nghiệp. Một phần kinh phí để thành lập các quỹ này do các doanh nghiêp được hưởng lợi từ việc THĐ của người nông dân đóng góp.

Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012

THỜI HẠN VÀ HẠN ĐIỀN–NHỮNG THÚC GIỤC TỪ THỰC TẾ

Ở các nước phát triển đều không có thời hạn và hạn điền đối với đất nông nghiệp. Nông dân được tạo điều kiện hết mức để ổn định sản xuất, khuyến khích đầu tư dài hạn theo chiều sâu, con em nông dân được tạo điều kiện học tập nghiên cứu để sau đó quay trở về nông thôn, đồng ruộng tiếp tục làm nghề nông. Con em họ thường theo truyền thống gia đình, không ly nông ly hương chạy vào đô thị.
Những nước có nền nông nghiệp phát triển đã tạo cho người nông dân sự yên tâm với nghề nông, có được thu nhập cao từ nghề nông và con em họ vẫn tiếp tục chí thú với nghề nông. Trong khi ở nước ta, con em nông dân mà giỏi giang một chút là chạy vào đô thị để tìm kiếm cơ hội thu nhập cao, không bao giờ muốn quay về đồng ruộng.
Những người làm nông nghiệp là cha là mẹ cũng khuyến khích con em họ quay lưng lại với nghề nông để tránh cuộc sống lam lũ. Chúng ta luôn luôn làm cho “tam nông” bị hẫng hụt mà cái hẫng hụt đầu tiên là về nhân lực – cái hụt khó bù đắp nhất.
Câu chuyện một nông dân có 500ha ruộng mà 70-80% số đó phải nhờ người khác đứng tên, hay thời hạn năm 2013, tức 20 năm từ khi thực hiện giao đất nông nghiệp theo nghị định 64/1993, Nhà nước có thu hồi ruộng đất để chia lại hay không… đang cho thấy những thực tiễn nóng bỏng trong lĩnh vực nông nghiệp, thúc giục một sự quyết đáp rõ ràng.
Đất đai luôn luôn là vấn đề lớn đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân, nhất là ở các nước đang phát triển với kinh tế nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao, dân sống bằng nghề nông còn nhiều. Ngày nay, các nước phát triển cao cũng đặt mối quan tâm lớn vào khu vực nông nghiệp và nông thôn với ý nghĩa bảo đảm an ninh lương thực và giải quyết vấn đề môi trường.
Nhìn xa hơn, khi tài nguyên hóa thạch cạn kiệt, loài người sẽ phải tìm kiếm nhiên liệu, nguyên liệu từ nông sản để tiếp tục phát triển.

Hai vấn đề cốt lõi
Từ ngày đầu đổi mới, chính sách Nhà nước giao đất của hợp tác xã cho hộ gia đình, cá nhân để sử dụng ổn định lâu dài đã mang lại động lực cho phát triển nông nghiệp, đưa nước ta từ tình trạng thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Đến nay động lực đó đã cạn dần vì không thể tăng năng suất và sản lượng cao hơn.
Để phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, chúng ta cần đầu tư hạ tầng hiện đại, quy hoạch lại đồng ruộng, tăng cường dịch vụ cho nông nghiệp và nông thôn như điện, thủy lợi, giao thông, công nghệ…, làm sao để giúp nông dân tự vươn trực tiếp ra thị trường nông sản trong nước và quốc tế. Nhưng, từ đây có hai vấn đề cốt lõi cần có những quyết đáp rõ ràng: đó là câu chuyện thời hạn (giao đất) và hạn điền. Giải quyết xong hai vấn đề này sẽ tạo được động lực mới cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Một mặt không để hình thành tầng lớp “địa chủ” mới, mặt khác lại không thể để ruộng đất manh mún và thiếu đầu tư dài hạn. Hai tư duy này cọ xát nhau rất mạnh trong quá trình phát triển nông nghiệp nước ta. Nếu không được tập trung ruộng đất quy mô lớn với thời gian sử dụng ổn định lâu dài thì người có khả năng làm nông nghiệp không dám đầu tư lớn và dài hạn để tăng năng suất và sản lượng.
Thời hạn được quy định từ Luật đất đai 1993 với tinh thần “hết thời hạn vẫn được tiếp tục sử dụng đất nếu sử dụng đất có hiệu quả”. Vấn đề phức tạp thực tế được đặt ra: ai là người xác nhận hiệu quả sử dụng đất để được tiếp tục sử dụng? Chắc chắn phải là chính quyền địa phương.
Như vậy, cơ chế này bắt người nông dân phải “cầu cạnh” chính quyền để giữ được đất. Và một cơ chế như vậy ẩn chứa nguy cơ tham nhũng rất cao. Khi chuẩn bị Luật đất đai 2003, câu chuyện được đặt ra là chúng ta có nên bỏ thời hạn sử dụng đất nông nghiệp hay không, nếu không bỏ thì có kéo dài thời hạn hay không? Cứ cho là thời hạn được kéo dài hơn thì cũng vẫn vướng vào câu hỏi là hết thời hạn sẽ làm gì?
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7, khóa IX đã đưa ra xem xét vấn đề này khi thông qua nghị quyết số 26-NQ/TW về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có hai luồng ý kiến khá ngang nhau xuất hiện: một là hết thời hạn thì chia lại ruộng đất cho công bằng theo lực lượng lao động hiện tại; hai là cho đương nhiên kéo dài thời hạn, thậm chí xóa bỏ thời hạn.
Vì số lượng ý kiến ngang nhau nên vấn đề thời hạn bị xếp lại để tiếp tục giải quyết trước ngày 15-10-2013, ngày kết thúc thời hạn 20 năm đối với đất sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối.
Những thực tế đòi hỏi
Một điều thấy rõ là nếu không xóa bỏ thời hạn thì chắc chắn nông dân sẽ khó lòng yên tâm đầu tư dài hạn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, nhất là với mô hình sản xuất lớn có giá trị gia tăng cao đang được cổ xúy rất mạnh mẽ hiện nay. Khi sử dụng đất sản xuất nông nghiệp chỉ với thời hạn 20 năm, sau này lại không biết “thân phận” đất đai của họ đang sử dụng sẽ như thế nào, chắc chắn không người nông dân nào dám đầu tư lớn, dài hơi.
Xóa thời hạn được coi là phương án tốt nhất để người chuyên làm nông nghiệp yên tâm dồn tâm trí, tiền bạc, sức lực để tạo nên khu vực nông nghiệp có năng suất và sản lượng rất cao. Đây chính là động lực mới từ chính sách đất đai để phát triển kinh tế nông nghiệp. Đầu tư cho nông nghiệp có khi phải kéo dài cả hàng chục năm mới thay đổi được phương thức canh tác làm tăng đáng kể lợi nhuận.
Việc giải phóng thời hạn sử dụng đất đồng nghĩa với việc giải phóng tâm lý lo lắng, phấp phỏng của nông dân, để họ yên tâm đưa ra một kế hoạch đầu tư dài hạn. Tất nhiên, để tránh trường hợp có đất nhưng không sử dụng, cần đặt ra nhiều chính sách khác như điều tiết bằng thuế, thu hồi đất, đừng dùng cách hạn chế bằng thời hạn sử dụng đất.
Đối với hạn điền cũng có hai cách nhìn nhận khác nhau: thứ nhất cho rằng cần loại bỏ hạn điền nhằm khuyến khích kinh tế trang trại quy mô lớn; cách thứ hai ngược lại, muốn tiếp tục quy định hạn điền để tránh xu hướng hình thành tầng lớp “địa chủ” mới và “tá điền” mới ở nông thôn. Nhưng từ lịch sử mà thấy, thì hạn điền là một chính sách đất đai rất cơ bản của thời kỳ phong kiến để nhà vua không cho tầng lớp địa chủ cơ hội lấy quá nhiều đất của vua. Cách thức đó rõ ràng không phù hợp với tư duy công nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa.
Hệ thống pháp luật đất đai của ta nhiều năm qua cũng đã đi theo hướng nới rộng hạn điền. Hạn điền theo Luật đất đai 1993 đã trở thành hạn mức giao đất của Nhà nước cùng với hạn mức nhận chuyển quyền (khoảng gấp đôi hạn mức giao đất) trong Luật đất đai 2003. Mặt khác, trên thực tế hệ thống quản lý đất đai của ta không phát hiện được và cũng không có chế tài xử lý các trường hợp vượt hạn điền.
Việc xóa bỏ hạn điền cũng là cần thiết, điều đó sẽ giúp người nông dân có điều kiện hình thành các trang trại lớn, yên tâm đầu tư chiều sâu, nông nghiệp sẽ phát triển mạnh hơn. Để tránh hiện tượng hình thành tầng lớp “địa chủ” mới, chúng ta cũng vẫn giải quyết được bằng chính sách thuế, bằng các chế tài thu hồi đối với đất đã phát canh thu tô, quy định cụ thể về phân chia địa tô, đừng giải quyết bằng hạn điền vì không hiệu quả.
“Tam nông” hiện đang cần những chính sách đất đai phù hợp hơn, tạo động lực lớn hơn để người nông dân yên tâm tự đầu tư sản xuất nông nghiệp theo chiều sâu. Vậy hãy trao cho nông dân cơ hội làm giàu trên đồng ruộng. Để làm được điều đó, về mặt chính sách đất đai, Nhà nước cần xóa hạn điền, xóa thời hạn trong sử dụng đất nông nghiệp, mở ra nhiều kênh tín dụng phù hợp cho nông dân để phát triển sản xuất, tạo điều kiện để người nông dân dễ dàng tiếp cận với công nghệ và dịch vụ, hỗ trợ người nông dân trực tiếp tham gia thị trường.
Vụ việc ở Tiên Lãng (Hải Phòng) là một ví dụ điển hình về tiêu cực khi thu hồi đất hết thời hạn mà trên đất đó những người trực tiếp sản xuất nông nghiệp đã bỏ quá nhiều vốn liếng, công sức ra đầu tư dài hạn. Nhiều bài học về chính sách đất đai rất cần được rút ra thấu đáo từ những đau lòng này.

Nguồn: TUỔI TRẺ CUỐI TUẦN

Thứ Năm, 22 tháng 12, 2011

BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ: VỤ ÁN CÁI CỬA SỔ

Vì những chiếc cửa sổ mở không đúng cách mà hai nhà hàng xóm “choảng” nhau!
Trổ cửa sai!
Khi làm nhà, gia đình ông Đ. (Từ Liêm, Hà Nội) đã trổ mười cửa sổ nhìn thẳng sang phía nhà anh S. hàng xóm. Thấy việc trổ cửa không đúng quy cách (phải cách ranh giới đất với nhà bên cạnh ít nhất hai m), anh S. đã… thắc mắc. Tuy nhiên, nhà vẫn cứ được xây lên và cửa sổ vẫn được mở.
Vụ việc sau đó được đưa ra TAND huyện Từ Liêm để nhờ tòa giải quyết… Năm 2003, xử vụ án tòa đã tuyên buộc gia đình ông Đ. phải xây bít mười cửa sổ này lại để không ảnh hưởng nhà hàng xóm…

Sau khi tòa xử, phía ông Đ. đã khắc phục bằng cách “bắn” tôn ở ngoài và khẳng định cửa luôn đóng. Phía anh S. không chấp nhận nên khiếu nại lên cơ quan chức năng, buộc phía bên kia phải xây bít như nội dung bản án. Ban chỉ đạo Thi hành án (THA) Từ Liêm đã họp lại nhiều lần nhưng vẫn không giải quyết được. THA dân sự Từ Liêm thấy vụ việc quá… rối nên đã chuyển hồ sơ, đề nghị THA dân sự TP Hà Nội tổ chức thi hành án. Cơ quan cấp trên này đã nhận định đây là tranh chấp phức tạp nên yêu cầu lãnh đạo Cục THA dân sự – Bộ Tư pháp, Vụ Kiểm sát THA – VKSND tối cao, cơ quan THA, TAND và một số cơ quan tư pháp của TP Hà Nội và huyện Từ Liêm tổ chức họp, tư vấn bàn biện pháp giải quyết… Tuy nhiên cho đến nay, cuộc họp tư vấn này vẫn chưa được tổ chức (!?) và gần năm năm, những chiếc cửa sổ vẫn làm ảnh hưởng tình cảm hai nhà…
Mất tình lối xóm!
Hàng ngày vào ra, thấy những chiếc cửa sổ chưa được xây bít, anh S. bực bội. Anh cho rằng sinh hoạt gia đình anh vẫn bị người khác nhìn ngó vì nó chĩa thẳng vào các phòng nhà anh, trong đó có phòng ngủ. Lý ra những sinh hoạt gia đình là chuyện riêng tư, bất khả xâm phạm nhưng cửa mở thì hổng còn gì là riêng tư nữa… Nó làm anh phiền lòng quá! Còn phía bên kia thì cho rằng có chăng họ mở chỉ là để lấy chút ánh sáng (cửa chủ yếu làm bằng kính), còn họ chẳng có hơi sức đâu mà nhìn sang nhà… thiên hạ!
Gay cấn lên đến đỉnh điểm, rồi xảy ra xô xát vào mùa hè năm ngoái. Nhà ông Đ. có giỗ nhưng lại bị mất điện. Quá nóng bức, khách khứa không biết nội tình nên vô tình mở cửa sổ ra cho mát.
Thấy vậy, phía anh S. lập tức lấy cây đẩy cánh cửa vào. Sau đó, con trai ông Đ. đã sang xin mở cửa nhờ một lúc cho thoáng nhưng anh S. không đồng ý. Hai bên lời qua tiếng lại rất gay. Ngay sau đó, anh này về nhà kéo thêm anh em, bạn bè khoảng gần chục người sang hành hung phía anh S. làm nhiều người phải đi cấp cứu. Phía anh S. lập tức gửi đơn đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người đã hành hung người nhà anh…
Từ những chiếc cửa sổ vô tri, vô tình làm tình cảm lối xóm sứt mẻ trầm trọng… Sự việc có lẽ sẽ không đến nỗi nghiêm trọng nếu các bên tuân theo luật (nhất là khi đã có bản án), các cơ quan chức năng kiên quyết giải quyết dứt điểm. Mong rằng trong thời gian ngắn nhất tới đây, trong sẽ ấm, ngoài sẽ êm…
Chỉ được mở các cửa đi, cửa sổ, lỗ thông hơi trên các bức tường cách ranh giới đất với nhà bên cạnh ít nhất 2m.
Khi mở cửa, cần có biện pháp tránh tia nhìn trực tiếp vào nội thất nhà bên cạnh.
(Theo Quy chuẩn Xây dựng Việt Nam)
Nguồn: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM