Hiển thị các bài đăng có nhãn thi hành án dân sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thi hành án dân sự. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013

TRÌNH TỰ, THỦ TỤC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Căn cứ Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật NPK & Associates nêu tóm tắt trình tự thủ tục thi hành án dân sự như sau:
1. Cấp bản án, quyết định của Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại:
 - Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại đã ra bản án, quyết định được quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự, phải cấp cho người được thi hành án và người phải thi hành án, bản án, quyết định có ghi “Để thi hành án”;
- Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại phải giải thích cho người được thi hành án, người phải thi hành án đồng thời ghi rõ trong bản án, quyết định về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án theo quy định của Pháp luật.

2. Thời hiệu thi hành án:
- Thời hiệu thi hành án theo Luật thi hành án dân sự là 5 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại có hiệu lực pháp luật;
- Thời hiệu thi hành án chỉ áp dụng đối với trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu.

3. Quyền yêu cầu thi hành án:
Người được thi hành án, người phải thi hành án đều có quyền yêu cầu thi hành án. Người yêu cầu thi hành án phải có đơn (theo mẫu) hoặc trực tiếp đến cơ quan thi hành án dân sự nêu rõ nội dung yêu cầu và các thông tin liên quan đến việc thi hành án, kèm theo bản án, quyết định của Tòa án về dân sự, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại và các tài liệu khác có liên quan (nếu có).

4. Ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thi hành án:
Thời hạn ra quyết định thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thi hành án.

5. Từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án: 
Cơ quan thi hành án dân sự từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án trong các trường hợp sau đây:
- Người yêu cầu thi hành án không có quyền yêu cầu thi hành án hoặc nội dung đơn yêu cầu thi hành án không liên quan đến nội dung của bản án, quyết định;
- Cơ quan thi hành án dân sự được yêu cầu không có thẩm quyền thi hành án;
- Hết thời hiệu yêu cầu thi hành án.

6. Thông báo về thi hành án:
- Quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập và các văn bản khác có liên quan đến việc thi hành án phải thông báo cho người được thi hành án, người phải thi hành
án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ theo nội dung của văn bản đó;
- Người được thông báo có nghĩa vụ nhận thông báo và chịu trách nhiệm về việc cố tình không nhận thông báo;
- Chi phí thông báo do người phải thi hành án chịu, trừ trường hợp pháp luật quy định ngân sách nhà nước chi trả hoặc người được thi hành án chịu.

7. Tự nguyện thi hành án:
- Nhà nước khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hành án;
- Căn cứ quyết định thi hành án, Chấp hành viên định cho người phải thi hành án thời hạn không quá 15 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định để tự nguyện thi hành án.

8. Cưỡng chế thi hành án:
- Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế thi hành án sau khi hết hạn tự nguyện thi hành án;
- Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng  ngay các biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự;
- Người bị cưỡng chế được thông báo về chi phí cưỡng chế và phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án theo quy định.

9. Các trường hợp hoãn thi hành án:
- Người phải thi hành án ốm nặng hoặc chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể  tự mình thực hiện được nghĩa vụ mà theo bản án, quyết định;
- Người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành án;
- Người phải thi hành án về các khoản nộp  ngân sách Nhà nước không có tài sản hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản đó không đủ chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc có tài sản nhưng không thuộc loại được kê biên;
- Tài sản kê biên có tranh chấp đã được Tòa án thụ lý giải quyết;
- Theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án và các quy định khác của pháp luật.

10. Đình chỉ việc thi hành án:
- Người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế;
- Người được thi hành án chết mà theo quy định của pháp luật quyền và lợi ích của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế hoặc không có người thừ kế;
- Đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án không tiếp tục   việc thi hành án, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba;
- Thời hiệu thi hành án đã hết;
- Những quy định khác của pháp luật.

11. Trả đơn yêu cầu thi hành án:
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành, ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án và bản án, quyết định cho người được thi hành án trong trường hợp:
- Người phải thi hành án không có tài sản hoặc có tài sản nhưng giá trị  tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án; Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc thu nghập thấp, chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình;
- Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án;
- Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật đặc định không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được mà đương sự không có thỏa thuận khác.
Người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định theo quy định của pháp luật, kể từ ngày phát hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành.

12. Thu nộp tiền, tài sản thi hành án:
- Khi nộp tiền thi hành án, người nộp tiền được nhận biên lai thu tiền thể hiện số tiền đã nộp;
- Người được thi hành án được nhận tiền trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc, kể từ ngày thu được tiền thi hành án.
- Người đến nhận tiền, tài sản thi hành án phải có chứng minh thư nhân dân
kèm theo giấy báo. Trong trường hợp nhận thay phải có giấy ủy quyền có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường…nơi người  ủy quyền cư trú.

13. Phí thi hành án dân sự:
- Người được thi hành án khi có đơn yêu cầu thi hành án, phải nộp phí thi hành án đối với khoản thi hành án có giá ngạch tính trên giá trị tài sản hoặc số tiền thực nhận. Mức phí là 03%, nhưng tối đa không quá 200 triệu đồng đối với 01 vụ việc.

14. Các trường hợp được miễn, giảm phí thi hành án dân sự:
Người được thi hành án được miễn, giảm phí thi hành án như sau:
- Giảm 80% phí thi hành án đối với người được thi hành án là người có khó khăn về kinh tế (thuộc chuẩn nghèo theo quy định của pháp luật hiện hành);
- Miễn phí thi hành án đối với các đối tượng quy định tại Điều 2 Pháp lệnh Ưu đãi người có công với Cách mạng năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành; 
- Miễn phí thi hành án đối với người được thi hành án là người thuộc diện neo đơn, tàn tật, ốm đau kéo dài theo quy định của pháp luật hiện hành;
- Miễn phí thi hành án đối với trường hợp Tòa án xác định không có giá ngạch và
không thu án phí có giá ngạch khi xét xử (như trường hợp đòi nhà cho thuê, đòi nhà cho ở nhờ….);
- Tiền cấp dưỡng, tiền bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; tiền lương, tiền công lao động; tiền trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc, tiền bảo hiểm xã hội, tiền bồi thường thiệt hại vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động;
- Số tiền hoặc giá trị tài sản theo các đơn yêu cầu thi hành án không vượt quá hai lần mức lương tối thiểu chung do nhà nước quy định;
- Những quy định khác của pháp luật.

15. Khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự:
15.1- Khiếu nại về thi hành án dân sự:
- Người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên nếu có căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích của mình;
- Người khiếu nại về thi hành án dân sự có quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án dân sự hiện hành.
15.2- Tố cáo về thi hành án dân sự:
Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức;
- Người tố cáo về thi hành án dân sự có quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án dân sự hiện hành.

Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Những bất cập về việc mua đấu giá nhà đất bị kê biên để thi hành án


Tính đến thời điểm hiện nay, pháp lý quy định về việc mua đấu giá nhà đất bị kê biên để Thi hành án mới chỉ được quy định ở Luật thi hành án dân sự năm 2008 (THADS) và Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản (NĐ 17). Do văn bản điều chỉnh về vấn đề này còn hạn chế, cộng thêm việc chưa có chế tài xử phạt cụ thể, dẫn đến tình trạng người mua đấu giá nhà đất qua cơ quan thi hành án gặp phải rất nhiều bất cập và rủi ro.
Với tâm lý “mua của nhà nước sẽ yên tâm”, nhưng trên thực tế, khi mua xong tài sản đấu giá THADS thì người mua bắt đầu phải đối mặt với rất nhiều bất cập, rủi ro đằng sau, đó là:
Thứ nhất: Người phải thi hành án không giao nộp giấy tờ sở hữu nhà đất để gây khó dễ cho người mua nhà đất thực hiện quyền sở hữu:
Theo quy định tại Điều 111, Luật THADS thì khi kê biên quyền sử dụng đất, Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án, người đang quản lý giấy tờ về quyền sử dụng đất phải nộp các giấy tờ đó cho cơ quan thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, nếu người phải thi hành án, người đang quản lý giấy tờ về quyền sử dụng đất không giao nộp thì cũng không có biện pháp cưỡng chế, chế tài nào đối với họ. Vì vậy, đây chính là nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho người mua đấu giá nhà đất sau này.
Mặc dù, theo các quy định của Luật THADS và NĐ 17về bán đấu giá tài sản, người mua đấu giá sẽ được cơ quan nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở đối với nhà đất đã mua đấu giá nhưng do không thể thu hồi lại Giấy tờ sở hữu cũ đã cấp cho người phải thi hành án nên quyền lợi của họ cũng không được đảm bảo.
Chủ cũ (người phải thi hành án) lợi dụng Giấy tờ sở hữu cũ để cản trở việc thực hiện quyền của chủ sử dụng, chủ sở hữu hợp pháp của người mua đấu giá: Làm đơn từ khiếu nại có tranh chấp tại nhà đất đã được bán đấu giá để cản trở chủ mới (người mua đấu giá) thực hiện việc cho thuê, chuyển nhượng…..đối với nhà đất đã mua.
Khoản 4, điều 8 của NĐ 58/2009/NĐ-CP có quy định: “Tài sản đã được giao trên thực tế cho người được nhận tài sản và người đó đã ký nhận vào biên bản giao, nhận tài sản nhưng sau đó bị đương sự chiếm lại thì cơ quan thi hành án dân sự không có trách nhiệm giao lại tài sản cho người được nhận tài sản. Người đã nhận tài sản có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết”.
Đây chính là bất cập rất lớn từ phía cơ quan THADS, rất nhiều người phải thi hành án (chủ cũ) đã lợi dụng điều này để chiếm dụng nhà đất đã thi hành án. Có thể nói, sau khi bàn giao nhà đất, cơ quan Thi hành án đã “xong việc”, khi có tranh chấp hay chiếm dụng về nhà đất thi hành án, thì người đã nhận tài sản có quyền yêu cầu UBND hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Vậy, cơ quan có thẩm quyền ở đây là cơ quan nào? Trình tự giải quyết ra sao?
Thứ hai: Người phải thi hành án không bàn giao nhà.
Rất nhiều người, mua nhà đấu giá Thi hành án đang rơi vào tình trạng tiền đã trả, giấy tờ đã hoàn thiện, nhưng vẫn chưa nhận được nhà do chưa cưỡng chế được chủ cũ bàn giao nhà cho cơ quan thi hành án.
Trên thực tế, hiện nay vẫn chưa có chế tài cụ thể nào cho vấn đề này, để xử lý đối với những trường hợp gây khó khăn, không bàn giao nhà cho cơ quan thi hành khi bị cưỡng chế.
Thứ ba: Nhà đất đã mua đấu giá có quyết định kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm:
Theo quy định của điều 288, Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2005 có quy định: “Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật”.
Điều 284 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011 quy định về phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:“Trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 285 của Bộ luật này để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm”.
Như vậy, sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, cơ quan Thi hành sẽ tiến hành các thủ tục kê biên nhà đất để thi hành án và tổ chức bán đấu giá nhà đất. Sau khi hoàn tất các thủ tục bán đấu giá, người mua đã có Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, đất mới nhưng lại không được bàn giao nhà, đất do nhà đất này đang có quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Hay nói một cách khác đó là, tài sản mua đấu giásẽbị treovì... kháng nghị. Đấu giá xong, tài sản chưa kịp nhận thì có kháng nghị của cơ quan có thẩm quyền, sau đó án bị hủy. Vòng quay tố tụng trở lại từ đầu. Đợi được đến khi Tòa phân giải xong phải mất rất nhiều năm. Người mua đấu giá chẳng biết kêu ai khi không thể tìm ra ai là người có lỗi.
Thứ tư: Tải sản đã mua qua đấu giá bị coi là “có tranh chấp”
Một trong những bất cập lớn nhất trong quy định pháp luật đất đai hiện nay đó chính là vấn đề “có tranh chấp về quyền sử dụng đất”. Theo các quy định hiện hành thì nếu một thửa đất bị coi là “có tranh chấp về quyền sử dụng đất” thì người sử dụng đất sẽ bị hạn chế rất nhiều về quyền sử dụng, quyền định đoạt đối với thửa đất của mình.
Vấn đề bất cập ở chỗ là các văn bản pháp luật không có quy định cụ thể và các cơ quan quản lý hành chính nhà nước về đất đai cũng không có cơ sở, căn cứ nào để xác định cụ thể trường hợp nào thì được coi là “có tranh chấp về quyền sử dụng đất”. Tất cả đều chỉ căn cứ vào cơ sở duy nhất đó là “có đơn đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai của người dân” và không cần đánh giá đơn đó có cơ sở, có căn cứ pháp luật hay không? Người làm đơn đó có quyền sử dụng hoặc có căn cứ về việc được quyền sử dụng thửa đất đó hay không?
Đây chính là kẽ hở lớn để một số người dân lợi dụng để gây khó khăn, gây cản trở cho chủ sử dụng đất hợp pháp và việc cơ quan quản lý hành chính nhà nước về đất đai địa phương (UBND cấp phường, xã, quận, huyện…) không có biện pháp giải quyết triệt để dẫn đến việc gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sử dụng đất.
Trong trường hợp người mua đấu giá nhà đất cũng tương tự, do vấn đề bất cập quá lớn nêu trên mà quyền lợi của người mua đấu giá nhà đất bị ảnh hưởng rất nhiều. Trên thực tế, rất nhiều người mua đấu giá nhà đất bị chủ cũ gây khó dễ trong việc thực hiện các quyền lợi hợp pháp của mình, mặc dù đã được Nhà nước công nhận qua việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới, ngoài việc tổ chức cưỡng chế để được nhận nhà đất đã mua. Rất nhiều chủ cũ đã liên tục làm đơn từ tranh chấp đến UBND phường, quận để cản trở chủ mới thực hiện các quyền của người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở như cho thuê, chuyển nhượng …
Để khắc phục những bất cập và hạn chế, phòng ngừa rủi ro từ việc mua nhà đất quan cơ quan thi hành án, thì cần phải có các biện pháp và chế tài.
Vì vậy, để hạn chế rủi ro cho người mua nhà đất đấu giá thì cơ quan hành chính nhà nước cần phải có những biện pháp và chế tài cụ thể cho những trường hợp này.
Thứ nhất: Đối với việc không thu hồi (được) Giấy tờ sở hữu của người phải thi hành án:
Khi cấp Giấy tờ sở hữu mới cho người mua đấu giá thì ngoài Quyết định cấp nên ban hành thêm Quyết định hoặc bổ sung thêm nội dung về việc hủy bỏ giá trị pháp lý, hiệu lực của Giấy tờ sở hữu cũ đã cấp.
Thứ hai: Trường hợp người phải thi hành án (chủ cũ) không bàn giao nhà đất:
Cơ quan thi hành án cần tiến hành các biện pháp cưỡng chế thi hành án, yêu cầu người phải thi hành án bàn giao nhà.
Hiện nay, đã có Thông tư liên tịch 03/2012/TTLT-BTP-BCA của Bộ Tư pháp, Bộ Công an (có hiệu lực pháp luật từ ngày 15/5/2012) về việc phối hợp thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự. Tuy nhiên, để Thông tư này đi vào đời sống và thực sự có hiệu quả, thì cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan để cùng nhau có phương án giải quyết.
Bên cạnh đó, cần xây dựng chế tài xử lý, đối với những trường hợp chậm thi hành án hoặc không chấp hành thi hành án khi đã bị cưỡng chế.
Thứ ba: Người mua tài sản nhà đất đấu giá sau khi đã hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu thì có quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm:
Thực tế cho thấy Người mua được tài sản đấu giá, họ không cần biết có kháng nghị hay không, chỉ biết rằng họ đã bỏ tiền ra để mua tài sản của cơ quan nhà nước theo đúng thủ tục quy định, nhưng lại không nhận được quyền lợi của mình. Vì thế, việc khiếu nại diễn ra dai dẳng, phức tạp. Nhiều cấp, ngành phải vào cuộc mất nhiều thời gian và công sức nhưng nhiều vụ lại bế tắc. Trong trường hợp này có thể nói THA cũng chính là “nạn nhân” khi họ trở thành bị đơn bất đắc dĩ.
Thận trọng trong kháng nghị, chỉ kháng nghị khi có căn cứ pháp luật, kháng nghị cần kịp thời, đúng luật., đó là những việc cần làm. Trong đó đặc biệt lưu ý đến những vụ THA đã xong, quá trình bán đấu giá tài sản đã kết thúc, việc kháng nghị là không cần thiết, có thể ảnh hưởng đến an ninh chính trị tại địa phương…
Thứ tư: Bất cập về việc xác định thế nào là “có tranh chấp về quyền sử dụng đất?
Đối với việc chủ cũ (người phải thi hành án) có đơn từ tranh chấp về quyền sử dụng đất đối với nhà đất đã bị kê biên, bán đấu giá để thi hành án thì đây không thể coi là trường hợp “có tranh chấp về quyền sử dụng đất” bởi vì:
- Người mua đấu giá nhà đất bị kê biên thi hành án được Nhà nước công nhận và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của họ đối với tài sản đã mua thông qua việc bán đấu giá hợp pháp (quy định tại khoản 1 điều 106 Luật thi hành án dân sự 2008). Chủ cũ (người phải thi hành án) không còn bất kỳ quyền gì liên quan đến nhà đất đã được bán đấu giá.
- Đây là trường hợp bán đấu giá tài sản bị kê biên để đảm bảo thi hành án, tức là nó thực hiện phán quyết của một bản án, quyết định của Tòa án hoặc Trọng tài thương mại đã có hiệu lực pháp luật.
Để chứng minh cho việc “có tranh chấp về quyền sử dụng đất” trong trường hợp này, thì người chủ cũ phải có căn cứ rõ ràng, phải xuất trình được Quyết định giám đốc thẩm về việc hủy bỏ hiệu lực của bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án (căn cứ để thi hành án) và/hoặc có Thông báo thụ lý vụ án của TAND cấp có thẩm quyền về tranh chấp liên quan đến nhà đất đó như: Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự hoặc Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự (theo quy định mới của Luật tố tụng dân sự năm 2011) thì UBND cấp phường, quận mơí  có  căn cứ xác định nhà đất đã bán đấu giá là “có tranh chấp về quyền sử dụng đất” để hạn chế các quyền sử dụng, định đoạt của người mua đấu giá nhà đất bị kê biên thi hành án.

Thứ Sáu, 6 tháng 4, 2012

Những hạn chế khi tổ chức cơ quan thi hành án dân sự

Thi hành án dân sự (THADS) có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Toà án và các quyết định khác chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động THA là công đoạn làm cho bản án, quyết định của Toà án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
 Điều 136 Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận “Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Cho đến nay, công tác THADS đã thu được nhiều kết quả quan trọng về mặt tổ chức bộ máy. Các cơ quan THADS trên toàn quốc đã từng bước được kiện toàn. Từ Đội THADS, Phòng THADS (theo Pháp lệnh THADS năm 1993); đến THADS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; THADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (theo Pháp lệnh THADS năm 2004) và đến Luật THADS năm 2008 là tổ chức bộ máy THADS theo hệ thống dọc, gồm Chi cục THADS cấp huyện, Cục THADS cấp tỉnh.
Nhìn lại sự hình thành và phát triển, công tác THADS luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước. Bộ Tư pháp là cơ quan trực tiếp giúp Chính phủ tiếp nhận việc quản lý công tác THADS từ năm 1993. Trong 16 năm qua, bộ máy, tổ chức, cán bộ của hệ thống cơ quan THADS cơ bản đã được kiện toàn, lớn mạnh về mọi mặt; đội ngũ cán bộ, công chức THADS trưởng thành hơn về bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn; kết quả THADS năm sau cao hơn năm trước, chất lượng THA được nâng cao. Tại nhiều kỳ họp Quốc hội, Chính phủ đã báo cáo và được Quốc hội ghi nhận sự chuyển biến của công tác THADS.
Việc Chính phủ thành lập Tổng cục THADS, Cục THADS cấp tỉnh, Chi cục THADS cấp huyện là để tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả, chất lượng quản lý và tổ chức hoạt động THADS trong cả nước. Đây cũng là sự ghi  nhận của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đối với sự lớn mạnh, trưởng thành của ngành THADS trong thời gian qua.
Với chức năng, nhiệm vụ và tên gọi mới, vị thế của Tổng cục THADS và các cơ quan THADS được nâng lên tầm cao mới. Tuy nhiên, việc tổ chức theo hệ thống dọc cũng đang gây rất nhiều trăn trở cho nhiều học giả quan tâm tới lĩnh vực THADS.
Luật THADS năm 2008 được ban hành khi mà phương án xây dựng Bộ luật THA (đã dự thảo, chỉnh lý, lấy ý kiến đến lần thứ 17) phá sản do còn quá nhiều ý kiến trái ngược nhau, đặc biệt là quan điểm của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an không đồng tình ủng hộ việc thống nhất công tác quản lý nhà nước về THA vào một cơ quan. Đến nay, việc tổ chức bộ máy THADS theo ngành dọc ngoài những mặt ưu điểm thì mặt hạn chế vẫn hiện diện.  
Mặt tích cực: Tổ chức THADS theo hệ thống dọc về cơ bản kế thừa hệ thống Cơ quan THADS hiện hành, không làm xáo trộn về hệ thống tổ chức Cơ quan THADS, phù hợp với tính độc lập tương đối và chịu trách nhiệm trước pháp luật của Cơ quan THADS và Chấp hành viên. Đồng thời, quy định Cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện là cơ quan giúp UBND cùng cấp trong việc tổ chức, chỉ đạo công tác THADS tại địa phương và báo cáo công tác THADS khi có yêu cầu, đã bảo đảm được vai trò của UBND cấp tỉnh, cấp huyện trong việc chỉ đạo công tác THADS. Hệ thống cơ quan quản lý THADS được thành lập tương đối hợp lý và quy mô. Cơ chế quản lý THADS thống nhất thuận lợi cho xây dựng ngành và quan hệ với các cơ quan hữu quan.
Mặt hạn chế: Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, chúng tôi cho rằng, việc tổ chức bộ máy THADS theo ngành dọc làm cho bộ máy nhà nước thêm cồng kềnh, gánh nặng ngân sách nhà nước tiếp tục gia tăng và chưa phát huy được hết sức dân vào hoạt động THADS. Bên cạnh đó, yếu tố cắt khúc giữa hoạt động xét xử và hoạt động THADS vẫn chưa được nhìn nhận thấu đáo. Hạn chế đó được thể hiện qua các mặt sau đây:
Một là, với quan niệm Tòa án vừa xét xử, vừa tổ chức THA là “vừa đá bóng, vừa thổi còi” mà cần có cơ quan độc lập để tổ chức THADS. Theo chúng tôi, dù Tòa án, hay THA tổ chức THADS, thì chủ thể thực thi vẫn là một cơ quan của Nhà nước, sử dụng quyền lực Nhà nước để thi hành. Như vậy, không có sự khác biệt giữa Tòa án hay THA trong việc tổ chức THADS. Việc cắt khúc giữa hoạt động xét xử và hoạt động THADS tạo ra hàng loạt bản án, quyết định được tuyên nhưng không có tính khả thi, khi Thẩm phán ra phán quyết nhưng không nghĩ, không lường trước việc THA ra sao. Đó là lý do đáng báo động trong việc tồn đọng án của cơ quan THADS hiện nay và làm giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác THADS. Điều đó được minh chứng bởi nhiều bản án, quyết định của Tòa án bị hủy, sửa sau một quá trình THA. Hơn thế nữa, khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm thì những phần đã được THA lại ít được Tòa án quan tâm đề cập và giải quyết. Nguyên nhân chính là do pháp luật chưa có quy định rõ ràng về việc đưa những nội dung này vào giải quyết và vì vậy, Thẩm phán thường né tránh giải quyết những nội dung đã được thi hành – mà đa phần những nội dung này đều rất phức tạp. Chính do việc cắt khúc hai hoạt động này mà rất nhiều bản án, quyết định của Tòa án tồn đọng tại các cơ quan THADS qua nhiều năm, nhiều lần, nhiều cấp xét xử nhưng vẫn chưa có điểm dừng. Cứ thế, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đương sự, người liên quan đã không được giải quyết thỏa đáng, vì thế họ tiếp tục khiếu nại, khiếu kiện là chuyện đương nhiên và án tồn đọng nhiều tại các cơ quan THADS cũng là điều hiển nhiên.
Hai là, nhìn từ thực tiễn trên thế giới, rất ít nước tổ chức một hệ thống cơ quan THADS độc lập và bao cấp bởi ngân sách nhà nước cho toàn bộ hoạt động. Cơ chế THADS có thể nằm ở Tòa án như ở nước Anh, Đức, Singapore, Nhật Bản… hoặc do tư nhân thực hiện như ở Pháp hay cơ chế THADS thuộc hệ thống cơ quan thuế như ở Thụy Điển. Về nhân sự, những người tham gia công việc THADS cũng khác nhau ở các nước khác nhau. Những người này có thể là luật sư tư nhân, cũng có thể là công chức nhà nước. Nếu là công chức nhà nước, đa phần họ là công chức trong ngành Tòa án. Về tài chính hoạt động, nhiều nước bao cấp một phần mang tính hỗ trợ cho hoạt động THADS như ở Đức, Mỹ, Úc… hoặc tổ chức THADS phải tự chịu trách nhiệm toàn bộ chi phí cho hoạt động THADS như ở Pháp, Bỉ… Điều đặc biệt là cho dù hoạt động THADS là do Nhà nước hay tư nhân thực hiện thì giữa hoạt động xét xử và hoạt động THADS vẫn không bị cắt khúc. Tòa án vẫn là cơ quan có trách nhiệm quản lý, hướng dẫn nghiệp vụ và có thể trực tiếp ra các quyết định về THADS – thực hiện quyền lực tư pháp. Đối với hoạt động THADS đã được xã hội hóa (tư nhân thực hiện) như nhiều nước trên thế giới, thì ở những nước đó, khoản thu thuế (thuế trực thu) từ hoạt động THADS cũng bổ sung cho ngân sách Nhà nước một khoản đáng kể mà Nhà nước không phải bao cấp cho hoạt động này.
Ba là, việc tổ chức cơ quan THADS như hiện nay là theo đơn vị hành chính. Số lượng các cơ quan này thay đổi tùy thuộc vào sự thay đổi đơn vị hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện).  Cơ cấu tổ chức theo đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp huyện đã tạo được một số thuận lợi như sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp chính quyền địa phương đối với cơ quan THADS thuộc địa phương mình, việc đi lại của người dân thuận tiện khi liên hệ công việc. Tuy nhiên, trong xu hướng sắp đến, Tòa án có thể được thành lập theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc nhiều vào đơn vị hành chính. Mặt khác, giữa Tòa án và cơ quan THADS có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, sự khác nhau về cách thức tổ chức các cơ quan này sẽ ảnh hưởng lẫn nhau. Phù hợp với việc đổi mới, sắp xếp lại tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, tổ chức các cơ quan THADS cũng phải được sắp xếp cho đồng bộ, phù hợp theo mô hình của Tòa án. Mặt khác, việc sắp xếp lại hệ thống các cơ quan THADS nhằm đảm bảo cân đối tỷ lệ số vụ việc phải THA giữa các cơ quan THA, khắc phục tình trạng có những cơ quan THA quá tải về công việc, có những cơ quan THA số vụ việc phải thi hành thấp, dẫn đến hoặc là “thừa việc, thiếu người” hoặc “thừa người, thiếu việc”, vừa lãng phí cho Nhà nước vừa giảm hiệu quả công tác THA. Lãng phí ở chỗ đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động bị dàn trải, không tập trung được sức người, sức của để nâng cao hiệu quả hoạt động trong công tác THADS. Một số đơn vị THADS có số lượng công việc hàng năm rất ít nhưng cũng phải xây dựng cơ cấu cán bộ (Thủ trưởng, phó Thủ trưởng, Chấp hành viên, Thẩm tra viên, Thư ký, Kế toán, Thủ quỹ, Văn thư, Thủ kho, Bảo vệ…); xây dựng trụ sở, kho vật chứng, phương tiện làm việc như các đơn vị THADS khác.
Tóm lại, yêu cầu xã hội hóa công tác THADS và đổi mới hệ thống tổ chức cơ quan THADS tiếp tục được đặt ra trong một chiến lược cải cách hệ thống tư pháp đồng bộ, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và của thời đại.

Nguồn: NCLP

Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2011

Bồi thường Nhà nước trong Thi hành án dân sự

Liên Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng vừa ban hành Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQP hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự (THADS) và sẽ có hiệu lực từ ngày 30/1/2012.

Phân định trách nhiệm bồi thường
Theo quy định, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong trường hợp người thi hành công vụ ra quyết định hoặc tổ chức thi hành quyết định về THADS chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện sau đây: có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật; hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; có thiệt hại thực tế xảy ra; có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế xảy ra và hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ.
Văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hoặc làm cơ sở để xác định người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật đó là: Quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật; Kết luận nội dung tố cáo của người có thẩm quyền theo quy định tại Điều 157 Luật THADS; Bản án, quyết định của Tòa án có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật.
Xác định thiệt hại bị mất thế nào?
Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của tổ chức  được xác định trên cơ sở thu nhập trung bình của hai năm liền kề trước thời điểm xảy ra thiệt hại. Thu nhập của tổ chức được xác định theo báo cáo tài chính hợp pháp của tổ chức; trường hợp không có báo cáo tài chính, tổ chức có thể chứng minh thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút bằng các tài liệu, chứng cứ hợp pháp khác theo quy định của pháp luật có liên quan. Nếu tổ chức được thành lập chưa đủ hai năm tính đến thời điểm xảy ra thiệt hại thì thu nhập thực tế của tổ chức được xác định dựa trên cơ sở thu nhập bình quân trong thời gian hoạt động thực tế của tổ chức đó.
Nhà nước không bồi thường đối với thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại; trường hợp người thi hành công vụ và người bị thiệt hại cùng có lỗi thì Nhà nước chỉ bồi thường một phần thiệt hại tương ứng với phần lỗi của người thi hành công vụ.   
Đối với thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của cá nhân được tính như sau: Nếu trước khi xảy ra thiệt hại mà người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề của người đó trước khi xảy ra thiệt hại để xác định khoản thu nhập thực tế.
Trường hợp trước khi xảy ra thiệt hại mà người bị thiệt hại có việc làm và hàng tháng có thu nhập nhưng không ổn định thì lấy mức thu nhập trung bình của ba tháng liền kề trước thời điểm thiệt hại xảy ra làm căn cứ để xác định khoản thu nhập thực tế.
Nếu trước khi xảy ra thiệt hại mà người bị thiệt hại là nông dân, ngư dân, người làm muối, người trồng rừng, người làm thuê, người buôn bán nhỏ, thợ thủ công, lao động khác có thu nhập nhưng theo mùa vụ hoặc không ổn định thì lấy mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại tại địa phương; nếu không xác định được thu nhập trung bình thì lấy mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định áp dụng cho công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước tại thời điểm giải quyết bồi thường làm căn cứ để xác định khoản thu nhập thực tế.
Thương lượng trong vòng 30 ngày
Thông tư quy định, trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc việc xác minh thiệt hại, người đại diện phải tiến hành thương lượng với người bị thiệt hại. Thời hạn thực hiện việc thương lượng là 30 ngày, kể từ ngày kết thúc việc xác minh thiệt hại; trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn thương lượng có thể kéo dài thêm nhưng không quá 45 ngày.
Tuy nhiên, nếu người bị thiệt hại không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường hoặc hết thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường mà cơ quan giải quyết bồi thường không ra quyết định giải quyết bồi thường theo quy định  thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường.
Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày bản án, quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải chuyển ngay hồ sơ đề nghị bồi thường đến cơ quan quản lý nhà nước về công tác THADS ở trung ương để thực hiện thủ tục cấp phát, chi trả tiền bồi thường cho người bị thiệt hại...