Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011

LỰA CHỌN MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY

Lịch sử phát triển các mô hình kinh tế cho thấy, nhân loại đã trải qua hai lần thất bại: Thất bại của thị trường tự do tư bản thiếu sự quản lý, điều tiết của nhà nước vào thế kỷ XVIII – XIX; và thất bại của nhà nước phi thị trường (mô hình Xô-viết trong thế kỷ XX). Để khắc phục hai sự thất bại ấy đã ra đời ba loại hình kinh tế thị trường: Kinh tế thị trường tự do (ở Tây Âu và Bắc Mỹ);  kinh tế thị trường xã hội (Đức và các nước Bắc Âu); kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc) và định hướng xã hội chủ nghĩa (Việt Nam).
Sự lựa chọn mô hình phát triển không chỉ do yêu cầu khách quan của kinh tế, mà còn bị quy định bởi chế độ chính trị – xã hội và những điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia dân tộc. Phân tích tính tất yếu khách quan của sự phát triển kinh tế thị trường và các loại hình kinh tế thị trường đặt trong điều kiện lịch sử nước ta cho thấy, việc lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với điều kiện hiện nay.
Tính tất yếu khách quan của sự phát triển kinh tế thị trường
Trước đây, thường có quan niệm rằng kinh tế thị trường là riêng có của chủ nghĩa tư bản. Nhưng theo quan điểm của C.Mác, sự phát triển xã hội như là một quá trình lịch sử tự nhiên, con người không thể dùng sắc luật để bỏ qua một giai đoạn phát triển của xã hội, kinh tế thị trường là một giai đoạn tất yếu của lịch sử mà nền kinh tế nào cũng phải trải qua; phải phát triển đầy đủ nền kinh tế thị trường thì mới đạt tới nấc thang cao hơn trên con đường tiến hóa. Nấc thang cao hơn đó là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Như vậy, nền kinh tế thị trường được C.Mác xác định là một nấc thang tất yếu, phổ biến trên con đường phát triển của tất cả các quốc gia dân tộc. Kinh tế thị trường được thừa nhận là thành tựu chung của văn minh nhân loại, không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, mặc dù nó ra đời gắn với chủ nghĩa tư bản và được phát triển đầy đủ dưới chủ nghĩa tư bản. Tính phổ biến của  kinh tế thị trường thể hiện ở cấu trúc khung chung cho mọi nền kinh tế thị trường. Những yếu tố cơ bản quy định kinh tế thị trường, cũng là những yếu tố của cấu trúc kinh tế thị trường, bao gồm 5 yếu tố sau:
Thứ nhất, chủ thể của kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Về nguyên tắc, nền kinh tế thị trường có cấu trúc đa sở hữu. Trong cấu trúc này, sở hữu tư nhân luôn là thành tố tất yếu, bắt buộc.

Thứ hai, hệ thống đồng bộ các thị trường và thể chế tương ứng. Mọi nền kinh tế thị trường đều bao gồm các loại hình thị trường: thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường đất đai, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ… Để nền kinh tế thị trường hoạt động có hiệu quả, phải bảo đảm hai yêu cầu: Một là, có sự hiện diện đầy đủ tất cả các thị trường nói trên. Hai là, các thị trường phải vận hành đồng bộ và  hiệu quả.
Thứ ba, hệ thống giá cả do thị trường quyết định là yếu tố cốt lõi quy định sự vận hành của các thể chế thị trường và của cả nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường chỉ có thể vận hành được một khi hệ thống giá cả được quyết định bởi thị trường trên cơ sở giá trị và quan hệ cung cầu nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận – động lực chủ yếu thúc đẩy nỗ lực hoạt động và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh tự do và bình đẳng. Về bản chất, cơ chế cạnh tranh thị trường là cơ chế tự điều chỉnh. Do vậy, nó còn được gọi là “bàn tay vô hình”. Cơ chế này giúp nền kinh tế tạo lập sự cân bằng khi cân đối cũ bị phá vỡ và thiết lập sự cân đối mới. Thị trường và cạnh tranh cũng là cơ chế chủ yếu phân bổ các nguồn lực phát triển của doanh nghiệp và nền kinh tế.
Thứ năm, vai trò của nhà nước. Thị trường có những khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong việc giải quyết những vấn đề phát triển, như khủng hoảng, đói nghèo, công bằng xã hội, môi trường… Cơ chế cạnh tranh tự do càng hoạt động mạnh, những khuyết tật này càng lộ rõ. Để khắc phục chúng và tránh mắc phải thất bại của thị trường, nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết sự vận hành của nền kinh tế. Nhà nước tham gia  các quá trình kinh tế thị trường vừa với tư cách là bộ máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành nền kinh tế. Với tư cách đó, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nhà nước thực hiện ba chức năng cơ bản: (1) Định hướng, tạo môi trường, hỗ trợ, kiểm soát và điều tiết sự phát triển; (2) Phân phối và tái phân phối nguồn lực phát triển và thu nhập quốc dân; (3) Giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường và bảo đảm phát triển bền vững.
Để thực hiện ba chức năng đó, nhà nước phải giải quyết bốn nhiệm vụ chủ yếu: (1) Cung cấp khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường; (2) Kiến tạo và bảo đảm  môi trường vĩ mô ổn định, có tính khuyến khích kinh doanh; (3) Cung cấp kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội (bao gồm hạ tầng “cứng” như giao thông vận tải, điện, nước v.v.. và hạ tầng “mềm” như dịch vụ thông tin, bưu chính – viễn thông; dịch vụ tài chính v.v..) cũng như các dịch vụ hàng hóa công cộng khác (chăm sóc sức khỏe, giáo dục – đào tạo, bảo vệ môi trường v.v..); (4) Hỗ trợ cho nhóm người nghèo có các điều kiện tối thiểu để tham gia thị trường một cách bình đẳng.
Năm yếu tố trên là những yếu tố cấu thành cơ bản của khung thể chế chung của mọi nền kinh tế thị trường. Chúng tạo thành một tổng thể quy định lẫn nhau. Thiếu bất cứ yếu tố nào trong số đó đều không thể có nền kinh tế thị trường bình thường, vận hành hiệu quả. Tuy nhiên, dù đây là 5 yếu tố cấu thành bắt buộc, song trong mỗi nền kinh tế thị trường, tùy theo chế độ chính trị – xã hội và các điều kiện phát triển cụ thể của mỗi quốc gia mà vai trò, vị trí và chức năng của từng yếu tố không hoàn toàn giống nhau. Điều này tạo nên tính đặc thù của các mô hình kinh tế thị trường và nền kinh tế thị trường ở mỗi quốc gia.
Các loại hình kinh tế thị trường và sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Thực tế cho thấy kinh tế thị trường không phát triển theo mô hình đơn nhất, nó được thực hiện dưới nhiều mô hình khác nhau. Cơ bản có ba loại:
Mô hình kinh tế thị trường tự do
Kinh tế thị trường trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản chủ yếu phát triển theo mô hình tự do, được thực hiện ở hầu hết các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hàng đầu ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Mô hình này đề cao vai trò của chủ sở hữu tư nhân, của tự do cá nhân và cạnh tranh tự do. Trong mô hình kinh tế thị trường tự do, sự can thiệp, điều tiết của nhà nước vào các quá trình kinh tế được hạn chế ở mức thấp. Quá trình phát triển kinh tế chủ yếu do khu vực tư nhân đảm nhiệm dưới sự điều tiết của “bàn tay vô hình” (tức cơ chế cạnh tranh tự do). Chức năng chính của nhà nước là bảo vệ chế độ tư hữu tư nhân và các quyền tự do cá nhân, bảo đảm ổn định vĩ mô, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân và cơ chế thị trường tự do vận hành thuận lợi nhất. Sự tham gia của nhà nước vào quá trình phân phối lại, vào hệ thống phúc lợi xã hội nhằm giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng, tạo lập công bằng xã hội, ngăn chặn và xử lý các thất bại của thị trường tuy được coi trọng, nhưng không nhiều như ở các mô hình khác. Ở mô hình này, vai trò động lực phát triển của lợi ích tư nhân, cá nhân (lợi nhuận) được đề cao tối đa, còn vai trò “người cầm lái” của nhà nước (bàn tay hữu hình) lại tương đối bị xem nhẹ.
Mô hình này được xây dựng trên cơ sở lý thuyết tự do tư sản. Theo trường phái này, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chính là tự do của từng người về những cái mà người ấy có. Tự do cạnh tranh và thị trường tự do sẽ tạo ra sự hài hòa trong xã hội và cực đại hóa thịnh vượng xã hội. Trên cơ sở đó hình thành nền chính trị tự do: Thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước nhưng không vi phạm, hạn chế tự do cá nhân, mà phải bảo đảm tự do cá nhân; các chính đảng tự do cạnh tranh qua bầu cử để giành quyền lực nhà nước, thiết lập thể chế đa nguyên chính trị; các nhóm lợi ích chính trị là những tập đoàn áp lực tác động vào chính sách và hoạt động của nhà nước  nhằm bảo đảm lợi ích của mình.
Nền kinh tế tự do là một động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Nhưng tự do cạnh tranh “cá lớn nuốt cá bé”, chỉ mang lại tự do cho người giầu có sở hữu, còn người nghèo không có sở hữu thì không có tự do, có chăng chỉ là tự do bán sức lao động. Bất bình đẳng, bất công xã hội dẫn đến tình trạng “kẻ ăn không hết, người lần không ra”. Xung đột giai cấp, dân tộc gay gắt, quyết liệt. Còn nền chính trị tự do tưởng như bảo đảm tự do, dân chủ, công bằng cho mọi người, nhưng trong thực tế, các nhà tư bản lớn nắm giữ quyền lực chính trị. Bầu cử tự do, nhưng thắng cử thuộc về các đảng lớn đại diện cho lợi ích của các tập đoàn tư bản mạnh, tuyệt đại bộ phận các nghị sĩ là giới thượng lưu tư sản. Hội các chủ doanh nghiệp lớn và hội các quan chức là những nhóm lợi ích chính trị hỗ trợ, tạo điều kiện cho hoạt động của quốc hội và chính phủ; hai cơ quan này lại liên kết với nhau để ban hành các chính sách phục vụ cho các nhóm lợi ích; hình thành tam giác quyền lực – quyền lực nhà nước bên trong nhà nước. Nền kinh tế tự do và chính trị tự do không giải quyết được bất công và xung đột xã hội. Khủng hoảng tài chính phát sinh từ trung tâm tài chính phố Uôn của Mỹ và lan ra toàn cầu; các nước có nền kinh tế tự do thường là chủ công trong những cuộc chiến tranh khống chế nguồn nguyên liệu, bao vây cấm vận các nước khác trên trường quốc tế. Tính chất dã man của chủ nghĩa tư bản vẫn hiện hữu, tuy biểu hiện dưới hình thức mới dưới nhãn hiệu “dân chủ”, “nhân quyền”… Mô hình tự do đã lỗi thời, không thể là tương lai của nhân loại.
Mô hình kinh tế thị trường xã hội
Mô hình này được thực hiện thành công ở Cộng hòa Liên bang Đức và các nước Bắc Âu, điển hình là ở Thụy Điển. Về nguyên tắc, mô hình kinh tế thị trường xã hội thừa nhận các yếu tố cơ bản phổ biến của kinh tế thị trường, như cấu trúc đa sở hữu với sở hữu tư nhân làm nòng cốt, hệ thống các thể chế thị trường, cơ chế cạnh tranh tự do và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Tuy nhiên, so với mô hình kinh tế thị trường tự do mô hình này có hai đặc trưng nổi bật:
- Coi các mục tiêu xã hội và phát triển con người (công bằng xã hội, phúc lợi cho người nghèo và người lao động, quyền tự do phát triển của mọi người dân…) cũng là mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế thị trường.
- Nhà nước dẫn dắt nền kinh tế thị trường phát triển không chỉ nhằm mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà còn cả mục tiêu phát triển và hiệu quả xã hội.
Với những đặc trưng trên đây, tuy mô hình kinh tế thị trường xã hội là một biến thể của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, song nó phản ánh một xu hướng tất yếu của sự phát triển. Đó là đến một trình độ phát triển nhất định, trong những điều kiện cụ thể, tự kinh tế thị trường không thể giải quyết hiệu quả tất cả các vấn đề phát triển, nhất là các mục tiêu phát triển xã hội và con người. Để đạt được điều đó, trong cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường, cần có thêm “bánh lái” để định hướng thúc đẩy quá trình phát triển đi đúng quỹ đạo nhằm phục vụ tốt nhất không chỉ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả nhiệm vụ phát triển xã hội và con người. Như vậy, để đạt hiệu quả cao nhất quá trình phát triển kinh tế thị trường, cần hướng tới mục tiêu xã hội và phát triển con người. Phương thức để đạt mục tiêu đó không phải là phủ nhận thị trường, xóa bỏ cơ chế thị trường mà là đặt nhà nước vào vị thế tham gia điều tiết và định hướng sự phát triển kinh tế thị trường với tư cách là một yếu tố cấu thành bên trong của cơ chế thị trường hiện đại. Mô hình thị trường xã hội còn chịu tác động của trào lưu tư tưởng xã hội dân chủ. Khác với chủ nghĩa tự do định hướng hiệu quả – khơi dậy động cơ vụ lợi của con người để cực đại hóa thịnh vượng xã hội, trào lưu xã hội dân chủ xuất phát từ định hướng giá trị – mọi người sống trong xã hội phải được bảo đảm cuộc sống phù hợp với nhân phẩm; tự do, bình đẳng là giá trị xuất phát và hướng tới mục tiêu dân chủ. Để đạt giá trị ấy cần thực hiện nền kinh tế hỗn hợp, đa sở hữu, trong đó kinh tế tư nhân là nòng cốt; nền chính trị đa nguyên; nhà nước phúc lợi xã hội; bằng hệ thống bảo hiểm hoàn chỉnh, những chính sách công bằng tự do đã bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho mọi người. Có thể nói thị trường xã hội, dưới  tác động của nhà nước phúc lợi, tuy vẫn là kinh tế tư bản, nhưng so với Tây Âu và Bắc Mỹ, đời sống xã hội ở các nước Bắc Âu dân chủ và công bằng hơn, nhân đạo và đồng thuận hơn. Đó là một bước tiến của nền kinh tế thị trường và văn minh chính trị. Nhưng trong phạm vi chủ nghĩa tư bản, kinh tế tư nhân còn là nòng cốt thì không thể thực hiện được những chính sách thực sự vì xã hội, vì con người, tác dụng của nhà nước phúc lợi cũng có giới hạn.
Mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Loại mô hình kinh tế thị trường này đang được thực thi ở Trung Quốc (kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa) và ở Việt Nam (kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa). Thời gian tồn tại của nó chỉ mới hơn 1/4 thế kỷ và đang từng bước được khẳng định. Tuy vậy, kết quả thực tế đã chứng tỏ đây là mô hình có sức sống mạnh mẽ và có triển vọng lịch sử to lớn. Kinh tế tăng trưởng nhanh và liên tục trong nhiều năm. An sinh xã hội được bảo đảm, chính trị – xã hội ổn định. Loại mô hình này đứng vững trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu và khắc phục nhanh hậu quả khủng hoảng tác động đến nền kinh tế trong nước. Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì đó là mô hình tiến bộ trong tiến trình phát triển xã hội, đồng thời cũng phù hợp với yêu cầu công cuộc đổi mới ở nước ta – thay đổi cấu trúc mô hình chủ nghĩa xã hội nhưng không từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu ấy bằng phương thức mới, bằng nền kinh tế thị trường. Do vậy chuyển từ nền kinh tế hành chính bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt, phải xác lập và hoàn thiện đầy đủ 5 yếu tố của thể chế thị trường để khơi dậy mọi động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo điều kiện vật chất và tinh thần đáp ứng mục tiêu xã hội và giải phóng con người; mặt khác, phải thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa là hướng tới xã hội nhân đạo hoàn thiện, khắc phục tha hóa, áp bức, bóc lột, bất công, mọi người được phát triển tự do, “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (C.Mác). Trước hết là xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Vì vậy, vấn đề an sinh xã hội, công bằng xã hội, tạo môi trường cho mọi người có điều kiện tự do phát triển cũng chính là mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu ấy cần coi trọng vai trò của Nhà nước, vai trò của “bàn tay hữu hình” trong quản lý, điều tiết nền kinh tế. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chính sách và lực lượng vật chất. Lực lượng vật chất chính là các nguồn lực của kinh tế nhà nước. Chỉ trên cơ sở nguồn lực kinh tế mạnh, Nhà nước mới có thể cung cấp kết cấu hạ tầng xã hội bảo đảm giao thông, điện, nước, thông tin, giáo dục – đào tạo, bảo vệ môi trường… Và, cũng chỉ trên cơ sở nguồn lực kinh tế mạnh, Nhà nước mới bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ người nghèo, hạn chế bất công xã hội… Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Song, kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, khuyết tật, chức năng chủ sở hữu chưa được xác định rõ ràng, thể chế và cơ chế vận hành còn nhiều bất cập tạo môi trường cho tham nhũng, lãng phí, nhất là khi bộ phận thoái hóa biến chất nắm kinh tế cấu kết với bộ phận thoái hóa biến chất nắm quyền lực chính trị tìm cách chiếm đoạt của cải sẽ gây nên tổn thất rất lớn tài sản nhà nước. Mặt khác, nước ta còn ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mới bước sang nền kinh tế thị trường, vừa thoát khỏi  nhóm nước có thu nhập thấp và bước vào nhóm nước phát triển có mức thu nhập trung bình, để có thể phát triển nhanh,  phải biết khơi dậy các động lực của nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân nếu phát triển đúng định hướng sẽ là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế, vì kinh tế tư nhân có chủ cụ thể với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận sẽ kích thích, phát huy sức sáng tạo của chủ doanh nghiệp, kích thích đổi mới kỹ thuật – công nghệ, tối ưu hóa sản xuất, tiết kiệm chi phí, tăng năng suất, giảm giá thành. Phát triển kinh tế tư nhân không chỉ tăng của cải xã hội, giải quyết công ăn việc làm, mà còn tăng cường sức cạnh tranh, tăng hiệu quả của nền kinh tế, góp phần khắc phục những yếu tố bất cập của nền kinh tế nước ta hiện nay. Đồng thời, cần coi trọng phát triển loại hình kinh tế sở hữu hỗn hợp, các doanh nghiệp cổ phần đa sở hữu để khơi dậy mọi động lực của nền kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế, mỗi hình thức sở hữu, mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những thế mạnh và những khuyết tật, vấn đề là biết kết hợp những ưu thế của chúng để hỗ trợ cho nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường; vừa tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại hình thị trường, vừa tạo ra nhân tố bảo đảm sự vận động của nền kinh tế theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Đó chính là hoàn thiện thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Để nền kinh tế thị trường vận động theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa, cần xác lập và hoàn thiện các nhân tố của kiến trúc thượng tầng chính trị bảo đảm định hướng cho sự phát triển kinh tế:
- Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước giữ vai trò quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế để nền kinh tế hoạt động có hiệu quả vì lợi ích của nhân dân.
- Củng cố và hoàn thiện vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản để bảo đảm kiên định thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính chất xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là thực hiện chủ nghĩa nhân đạo trong kinh tế thị trường, đó là xu hướng tiến bộ của kinh tế thị trường và là mô hình phát triển ở nước ta hiện nay./.

Nguồn: TẠP CHÍ CỘNG SẢN ĐIỆN TỬ

TỪ NGỮ VÀ LUẬT PHÁP

Về thuật ngữ “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”
Luật Đầu tư 2005 giải thích “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại”.
Theo đó, có thể hiểu chỉ cần có 1% vốn nước ngoài cũng được coi là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cách hiểu như vậy có lẽ chỉ gây rắc rối với những doanh nghiệp kinh doanh có ngành nghề trong danh mục hạn chế nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) như trường hợp Mekophar (vốn nước ngoài chiếm gần 5%). Tuy nhiên, nó lại là một cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước khác khi Nhà nước đã bảo hộ họ khỏi những đối thủ nước ngoài.
Nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển cho rằng: “Doanh nghiệp tham gia phân phối dược phẩm lẽ ra không được niêm yết. Nếu cho niêm yết, phải có chính sách riêng về room ngoại”. Như vậy, không chỉ doanh nghiệp niêm yết mà cả doanh nghiệp chưa niêm yết cũng phải cân nhắc khi cho NĐTNN góp vốn, mua cổ phần. Giải pháp đưa ra là Nhà nước có thể mở room cho NĐTNN vào những doanh nghiệp này nhưng mức tỷ lệ chắc chắn phải thấp hơn rất nhiều mức 49% như một số ý kiến đề xuất, vì thực tế với tỷ lệ này NĐTNN hoàn toàn có thể thông qua nhiều cách thức khác nhau để chi phối doanh nghiệp, chi phối thị trường.
Một vấn đề khác liên quan đến vốn đầu tư nước ngoài là quy định về đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Trong Luật Đầu tư thì hình thức góp vốn, mua cổ phần có thể là đầu tư trực tiếp hay gián tiếp tùy thuộc vào việc nhà đầu tư có tham gia quản lý doanh nghiệp hay không. Trong khi đó, NĐTNN đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán (Luật Chứng khoán điều chỉnh) hoàn toàn có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp, việc có tham gia quản lý hay không phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn. Do đó, phân biệt đầu tư trực tiếp và gián tiếp thông qua quyền tham gia quản lý là không chính xác và luật cũng không giải thích rõ thế nào là tham gia quản lý?

Vì sự lẫn lộn này nên có ý kiến yêu cầu áp dụng luật ưu tiên là Luật Chứng khoán thay vì áp dụng Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư cho trường hợp của Mekophar với lý do Mekophar đã lên sàn nên NĐTNN được nắm giữ đến 49% vốn điều lệ. Như vậy nên bỏ quy định hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp như khuyến nghị của ban soạn thảo.
Thuật ngữ “người đại diện theo ủy quyền”
Điều 4.14 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “Người đại diện theo ủy quyền là cá nhân được thành viên, cổ đông là tổ chức của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần ủy quyền bằng văn bản thực hiện các quyền của mình tại công ty theo quy định của luật này”. Quy định như vậy có nghĩa “cổ đông là cá nhân trong công ty cổ phần không được phép ủy quyền cho người khác”.
Để tham gia quản lý doanh nghiệp có vốn góp thì tổ chức phải thông qua cá nhân cụ thể đại diện cho phần vốn góp đó, việc ủy quyền đó phải thông qua những tiêu chuẩn và điều kiện cụ thể nhằm đảm bảo minh bạch. Tuy nhiên, trong phần quy định về công ty cổ phần thì không quy định cụ thể về người đại diện theo ủy quyền. Vì việc cử người đại diện của công ty cổ phần sẽ rắc rối hơn do phải tham gia vào quá trình bầu, miễn nhiệm thành viên hội đồng quản trị thông qua đại hội đồng cổ đông, do đó, tổ chức có bị hạn chế quyền thay thế, rút người đại diện của mình trong hội đồng quản trị hay không thì Luật Doanh nghiệp 2005 không đề cập.
Thuật ngữ “doanh nghiệp nhà nước”
Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”. Xác định như vậy là chưa hợp lý. Như vậy doanh nghiệp mà Nhà nước nắm 49% vốn thì gọi là doanh nghiệp gì? Hơn nữa, dù là doanh nghiệp nhà nước nhưng Nhà nước cũng không thể thông qua các quyết định quan trọng nếu không nắm giữ trên 75% vốn điều lệ, và nếu kết hợp giữa Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư thì chúng ta sẽ có thêm khái niệm mới là “doanh nghiệp nhà nước có vốn đầu tư nước ngoài”!? Mặt khác, quy định này cũng bất công với nhà đầu tư tư nhân và nước ngoài khi góp vốn cùng Nhà nước nhưng lại bị hiểu là “doanh nghiệp của nhà nước”!?
Để hiểu đúng về hai khái niệm “doanh nghiệp nhà nước” và “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” cần nhận thức trên cơ sở các thành phần kinh tế trong nền kinh tế nước ta. “Doanh nghiệp nhà nước” không phải là một loại hình doanh nghiệp mà là khái niệm liên quan hình thức sở hữu, doanh nghiệp nhà nước thuộc thành phần kinh tế nhà nước, tức Nhà nước nắm 100% vốn. Các hình thức sở hữu hỗn hợp có thể là thành phần kinh tế tư bản tư nhân (vốn hỗn hợp giữa nước ngoài và tư nhân) hoặc là thành phần kinh tế tư bản nhà nước (vốn hỗn hợp giữa nước ngoài và nhà nước). Thực tế, hai khái niệm “doanh nghiệp nhà nước” và “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” được quy định rất mờ nhạt trong Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư.
Thuật ngữ hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn
Luật Thương mại 2005 quy định hợp đồng qua sở giao dịch hàng hóa bao gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn. Nhưng thông lệ quốc tế phân biệt cụ thể hơn: hợp đồng tương lai (Futures Contract), hợp đồng kỳ hạn (Forward Contract) và hợp đồng quyền chọn (Option Contract). Hợp đồng tương lai được thỏa thuận và mua bán thông qua người môi giới, được mua bán trên thị trường tập trung và được tính hàng ngày theo giá thị trường. Hợp đồng kỳ hạn được thỏa thuận trực tiếp giữa hai bên giao dịch, trên thị trường phi tập trung và được thanh toán vào ngày đáo hạn.
Thống kê của thế giới chỉ 1-5% số hợp đồng tương lai trên thị trường thực sự được giao dịch (diễn ra việc giao hàng giữa các bên), còn lại hầu như chỉ diễn ra sự thanh toán lãi lỗ giữa các bên. Ngược lại, hầu hết mọi hợp đồng kỳ hạn đều diễn ra việc giao hàng thực sự giữa các bên.
Theo giải thích của Luật Thương mại 2005 thì hợp đồng kỳ hạn là thỏa thuận giữa bên mua và bên bán nhưng lại được thực hiện qua sở giao dịch hàng hóa, khái niệm này là sự kết hợp lẫn lộn giữa hai hợp đồng phổ biến theo thông lệ quốc tế. Luật Thương mại 2005 không có quy định về hợp đồng tương lai, chỉ có hợp đồng quyền chọn nhưng quy định về hợp đồng quyền chọn còn rất thiếu và chưa nêu rõ bản chất của loại hợp đồng này. Mục đích của hợp đồng quyền chọn là ngăn ngừa rủi ro và kinh doanh chênh lệch giá, do vậy, nó hoặc là một phần của hợp đồng tương lai hoặc là một công cụ tài chính phái sinh, cần bổ sung quy định chặt chẽ và đúng bản chất của loại hợp đồng này.
Thực tế, quy định Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX) về các loại hợp đồng (quy chế giao dịch hàng hóa theo phương thức báo giá, ban hành kèm theo Quyết định số 53/2011/QĐ-VNX ngày 28-10-2011) đã bổ sung thêm định nghĩa hợp đồng tương lai, một loại hợp đồng không có trong Luật Thương mại 2005!
Thị trường giao dịch hàng hóa thông qua các sở giao dịch sẽ ngày càng phát triển ở nước ta, những quy định chặt chẽ sẽ đảm bảo hạn chế những rắc rối phát sinh trong quá trình vận hành thị trường này. Vì vậy, người viết thống nhất với ý kiến của ban soạn thảo đề nghị sửa khái niệm hợp đồng kỳ hạn thành hợp đồng tương lai để phù hợp với thông lệ quốc tế và bổ sung các quy định về hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn.

Nguồn: THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN

Thứ Năm, 22 tháng 12, 2011

Bài giảng bậc đại học hay hành trình suy ngẫm

Bài viết phân tích một số điểm trong cuốn sách “Justice: what’s Right Thing to do?” để xác định đặc điểm của một dạng bài giảng phổ biến ở đại học Phương Tây, thuộc ngành khoa học xã hội và nhân văn. Đồng thời, tác giả cũng liên hệ, đối chiếu với quan niệm về bài giảng ở đại học Việt Nam, trong lĩnh vực này.
Hành trình suy ngẫm

Trước mắt tôi là bản dịch tiếng việt của cuốn “Justice: what’s the Right Thing to do?"1. Nội dung cuốn sách là bài giảng2 của Michael Sandel, Giáo sư ĐH Harvard. Tôi dựa vào việc phân tích vài điểm trong cuốn sách này để trả lời câu hỏi: bài giảng ở bậc đại học (ngành khoa học xã hội và nhân văn) là gì?3

Chúng ta sẽ tìm hiểu cặn kẽ đoạn xác định mục tiêu này của Michael Sandel để làm rõ một số đặc điểm của một dạng bài giảng ở bậc đại học:

Bài giảng là kết quả của hoạt động tư duy, của sự suy nghĩ cá nhân, là đóng góp riêng của giảng viên; chứ không chỉ là kết quả của một sự tóm lược hay giới thiệu các tác giả khác.
Aristotle, Immanuel Kant, John Stuart Mill, John Rawls4 sẽ xuất hiện trong quyển sách này. Nhưng thứ tự họ xuất hiện không phải theo thời gian. Cuốn sách này không phải giới thiệu lịch sử tư tưởng mà là cuộc hành trình suy ngẫm đạo đức và chính trị. Quyển sách không cố gắng chứng minh triết gia nào ảnh hưởng tới triết gia nào trong lịch sử tư tưởng chính trị, mục tiêu của quyển sách là mời gọi độc giả xem xét cẩn trọng quan điểm về công lý và sự xem xét mang tính phê bình của mình, để xác định mình nghĩ gì, và tại sao lại vậy.
5

Chúng ta thấy gì ở đây?

Trước hết, bài giảng là một vấn đề khoa học, ở đây là vấn đề công lý (justice). Và đó là một “hành trình suy ngẫm” (cụ thể trong bài này là suy ngẫm về đạo đức và chính trị) của người giảng viên, Michael Sandel.

Thứ hai, để có thể suy ngẫm, giảng viên phải tìm hiểu toàn bộ lịch sử của vấn đề này, kể từ Aristotle trở đi, để xem vấn đề đã được khai thác như thế nào, xử lý như thế nào, quan niệm của các triết gia ra sao. Tuy nhiên, như ông nêu rõ, ông không làm công việc giới thiệu lịch sử tư tưởng, không so sánh đối chiếu để xem xét các ảnh hưởng hay sự phát triển. Nghĩa là ông không nghiên cứu các tác giả của quá khứ như là một đối tượng tĩnh, không nghiên cứu kiến thức như là kiến thức trong sách vở. Mà các kiến thức đó được dùng như là nền tảng, cơ sở trên đó ông tiến hành quá trình “suy ngẫm” của mình. Như vậy bài giảng này là kết quả của hoạt động tư duy, của sự suy nghĩ cá nhân, là đóng góp riêng của giảng viên; chứ không chỉ là kết quả của một sự tóm lược hay giới thiệu các tác giả khác.

Giảng viên biến đối tượng suy tư của mình thành ra đối tượng suy tư của sinh viên, đưa họ tới việc nhận thức xã hội của họ, và tự nhận thức về chính họ, tự xem xét các suy nghĩ của họ.
Thứ ba, đối tượng của sự suy ngẫm là thực tại, là những gì đang diễn ra trong đời sống hiện tại. Kiến thức của quá khứ được dùng để soi chiếu vào thực tại, để nhằm giải quyết các vấn đề của thực tại. Sandel không nhằm mục đích giới thiệu Aristotle, Kant… mà cùng với họ tiếp tục suy nghĩ về vấn đề công lý trong thời đại của ông, về những nan đề mà nó tiếp tục đặt ra trong xã hội Mỹ và trên toàn thế giới hiện tại.


Sandel đặt vấn đề bằng những sự kiện trong đời sống Mỹ: vấn đề giá cắt cổ, huân chương Tử Tâm và gói cứu trợ. Michael Sandel suy ngẫm về các hiện tượng đang xảy ra: hiện tượng mua bán các bộ phận của cơ thể con người, cụ thể là trường hợp mua bán thận; hiện tượng thuê mang thai hộ; chính sách chống kỳ thị; vấn đề tuyển sinh đại học; hiện tượng mộ lính: việc bắt lính hay thuê lính ở Mỹ thể hiện sự công bằng hay vi phạm sự công bằng như thế nào; v.v… Chính trên những thực tế này của thời đương đại mà Sandel đối thoại với các triết gia quá khứ, xem xét những quan điểm rất khác biệt của họ và những điểm cần tranh cãi ở họ. Cách làm này khiến ông có thể đặt vấn đề theo kiểu: “Kant có bảo vệ Bill Clinton không?”6

Như vậy, bài giảng thuộc dạng này không hướng đến mục đích trình bày kiến thức trong sách vở của người khác. Bài giảng hướng tới việc nhận thức và giải quyết các vấn đề của đời sống thực, của xã hội trong đó giảng viên đang sống. Sandel nói rõ: “Đây không phải chỉ là vấn đề triết học. Nó nằm ở trung tâm của những nỗ lực tiếp sinh khí cho các thảo luận chính trị và đổi mới đời sống dân sự của chúng ta.”7

Cuối cùng, mục tiêu của bài giảng không phải chỉ là trình bày hành trình và kết quả suy ngẫm của giảng viên, không phải chỉ là sự giới thiệu thành quả của tư duy, mà “mục tiêu của quyển sách là mời gọi độc giả [trên giảng đường là sinh viên] xem xét cẩn trọng quan điểm về công lý và sự xem xét mang tính phê bình của mình, để xác định mình nghĩ gì, và tại sao lại vậy”.

Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là những suy tư của giảng viên phải hướng tới việc khơi dậy sự suy tư ở trong mỗi một đối tượng giao tiếp, mỗi sinh viên. Giảng viên biến đối tượng suy tư của mình thành ra đối tượng suy tư của sinh viên, đưa họ tới việc nhận thức xã hội của họ, và tự nhận thức về chính họ, tự xem xét các suy nghĩ của họ. Mục đích của sự giảng dạy cuối cùng là giúp sinh viên biết cách đặt ra các vấn đề, nhận diện các vấn đề của xã hội, nhận thức các thao tác xử lý vấn đề, nhận thức về chính mình, về những gì đang có trong đầu mình, về những gì đang diễn ra xung quanh mình.

Để có thể thực hiện một bài giảng theo cách thức mà Sandel đã làm đòi hỏi người giảng viên phải sử dụng tự do của mình trong việc lựa chọn nội dung chủ đề bài giảng, đòi hỏi người giảng viên phải tự do đối diện với thực tế đời sống, tự do sử dụng các dữ liệu thực tế thuộc mọi lĩnh vực, mọi phạm vi: từ đường lối, chính sách của nhà nước, phương thức điều hành của chính phủ, cho đến các sự kiện, hành động thuộc về các nhóm xã hội hoặc mỗi cá nhân trong xã hội.

Giảng viên Việt Nam: Nguy cơ cùn mòn và lạc hậu

Ở đại học Việt Nam, tình trạng chung là ngành khoa học xã hội lạc hậu rất nhiều so với khu vực và thế giới. Vì sao? Do nguyên nhân chủ quan của người giảng dạy? Do các yếu tố khách quan? Dĩ nhiên là do cả hai.

Bài viết này không có tham vọng đề cập một cách toàn diện tới các nguyên nhân tạo nên sự yếu kém của ngành này, mà chỉ nêu lên một số lí do, chắc chắn là chưa đầy đủ, khiến cho bài giảng ở đại học mang tính phổ thông nhiều hơn là tính đại học, và khiến cho nội dung giảng dạy bị lạc hậu.

Trước hết, đó là quy định về chương trình cố định và các môn học bắt buộc. Quy định về chương trình khung và các môn học cụ thể mang tính chất bắt buộc, trên thực tế, là một cách thức hữu hiệu để buộc giảng viên trở nên lạc hậu và cùn mòn, dù muốn hay không. Người ta không thể không lạc hậu nếu trong vòng mười năm hay hai mươi năm buộc phải giảng đi giảng lại một bài giảng.

Nếu không có cơ chế để mỗi giảng viên tự quyết định các bài giảng của mình, nếu không có cơ chế để giảng viên có thể trình bày các kết quả nghiên cứu độc lập của mình như là nội dung của các bài giảng8, thì không thể khuyến khích họ phát triển nghiên cứu. Quy định về chương trình cố định đi ngược lại với những đòi hỏi về sự phát triển của nghiên cứu. Chừng nào nghịch lý này còn chưa được giải quyết, cộng với điều kiện làm việc quá nhiều khó khăn, thì đại học Việt Nam vẫn cứ là nơi hủy hoại nguồn năng lượng chất xám của giảng viên.

Quy định về chương trình khung và các môn học cụ thể mang tính chất bắt buộc, trên thực tế, là một cách thức hữu hiệu để buộc giảng viên trở nên lạc hậu và cùn mòn, dù muốn hay không.
Liên quan đến nhận xét về việc bài giảng đại học của chúng ta nặng tính phổ thông, chỉ cần làm một so sánh nhỏ về tên các bài giảng ở đại học Phương Tây và ở đại học Việt Nam trong lĩnh vực này, ta sẽ thấy bài giảng đại học Phương Tây mang tính vấn đề, còn bài giảng của đại học Việt Nam mang tính chất giới thiệu kiến thức. Ví dụ, các bài giảng của chúng ta, ở các khoa văn học, thường là: Văn học Việt Nam (thế kỷ…), Văn học Việt Nam (giai đoạn…), Văn học Pháp (thế kỷ…), v.v... Hoặc là tên của các tác gia: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hugo, Balzac, Faulkner, v.v… Như vậy bài giảng thường nặng về văn học sử, giới thiệu kiến thức tổng quát. Giảng viên có thể soạn bài một lần để giảng trong nhiều năm. Ở Phương Tây, đối với những năm đầu của bậc đại học, các bài giảng vẫn phải hướng tới mục đích cung cấp các kiến thức nền tảng của ngành học cho sinh viên. Tuy vậy, giảng viên vẫn có quyền thực hiện việc cung cấp kiến thức nền thông qua các vấn đề cụ thể, chứ không chỉ nhất thiết phải trình bày lịch sử của vấn đề hay giới thiệu kiến thức một cách khái quát. Xem chương trình cho sinh viên hai năm đầu của Khoa Lettres, Art et Cinéma, ở đại học Paris 7, Pháp, ta thấy: bài giảng của Félix Perez, Vụ án và cái chết của Socrate - Thành bang trong quan niệm của Platon. Bài giảng của Jean-Christophe Reymond: Vấn đề diễn giải và nhận thức về bản thân ở thời Phục Hưng. Bài giảng của Régis Salado: Hư cấu và sự thật trong thơ v.v… Đấy là một số bài giảng dành cho sinh viên hệ Licence của Khoa Lettres, Art et Cinéma, năm học 2010-2011. Các bài giảng này không lặp lại chương trình của năm trước.


Các nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn ở đại học Việt Nam ít có liên hệ với thực tế. Tình trạng chung là có một khoảng cách, nhiều khi rất xa, giữa kiến thức được giảng dạy (kiến thức trong sách vở) cho sinh viên và thực tế đời sống, giữa các nghiên cứu về quá khứ và xã hội hiện tại. Bài giảng thường nặng về truyền thụ lại kiến thức của người khác, chứ ít khi là một “hành trình suy ngẫm” của giảng viên. Những nghiên cứu, phát hiện về thời quá khứ của giảng viên ít khi được sử dụng để góp phần vào việc suy nghĩ về các vấn đề của xã hội đương thời.

Bài giảng đại học Phương Tây mang tính vấn đề, còn bài giảng của đại học Việt Nam mang tính chất giới thiệu kiến thức.
Một ghi nhận khác là ngành khoa học xã hội và nhân văn ở các trường đại học Việt Nam không những chỉ lạc hậu so với các đại học quốc tế, mà còn lạc hậu so với chính các hoạt động xuất bản trong nước và so với những nỗ lực riêng lẻ của các cá nhân ngoài xã hội.


Bình thường, đại học là bộ phận đi tiên phong trong việc đề xuất các tư tưởng, các khuynh hướng nghiên cứu, các giải pháp cho xã hội; và ở mức độ thấp hơn, đại học đi tiên phong trong việc ứng dụng và cập nhật các nghiên cứu của thế giới. Nhưng ở Việt Nam, thời gian gần đây, xem ra đại học lại lẽo đẽo đi sau, không tiến kịp sự vận động của xã hội. Trong khi bản dịch tiếng Việt các tác phẩm kinh điển của Kant, Hegel, Nietzsche, John Stuart Mill, Durkheim, Deleuze9…, bản dịch những nghiên cứu mới của thế giới về triết học Marx, đã lưu hành nơi nhiều tầng lớp độc giả thì thử hỏi có bao nhiêu trường đại học đưa các tác phẩm đó vào chương trình giảng dạy, trong lúc mà, về nguyên tắc, sinh viên của khoa nào cũng phải học môn triết?

Chừng nào mà người nghiên cứu và giảng dạy vẫn còn gạt sang một bên các vấn đề đặt ra trong xã hội họ đang sống, không chọn lựa các vấn đề của thời đại họ làm đối tượng nghiên cứu, chừng đó vẫn còn chưa có khoa học xã hội thực sự. Kể cả đối với những chủ đề tưởng như mang tính vĩnh cửu: chân lý, công lý… thì người ta cũng không thể tư duy một cách thực sự nếu không xuất phát từ những dữ liệu của đời sống hiện tại, như cách mà Sandel đã làm. Và nếu giảng viên không tư duy thực sự thì làm sao có thể dạy cho sinh viên cách tư duy?

Chừng nào mà nội dung nghiên cứu và giảng dạy ở đại học còn chưa theo kịp với thời sự nghiên cứu của thế giới, không đi cùng nhịp với những quan tâm và không nắm bắt được các vấn đề đang đặt ra cho giới học thuật quốc tế, chừng đó vẫn còn chưa thể nói tới việc hội nhập với thế giới một cách bình đẳng. Chúng ta có thể tổ chức các hội thảo với sự tham gia của các nhà khoa học trên thế giới, nhưng điều đó không đảm bảo cho các nghiên cứu của chúng ta đạt tới đẳng cấp quốc tế. Khi nào chúng ta có các tham luận được trình bày trong các hội thảo quốc tế có uy tín, có các bài báo được công bố trên các tạp chí quốc tế, và ở mức độ cao hơn có các chuyên luận được tham khảo trong giới nghiên cứu và được dịch ra tiếng nước ngoài, lúc đó chúng ta mới thực sự khẳng định được vị thế của mình so với các đồng nghiệp trên thế giới.

Dĩ nhiên, không phải mọi giảng viên đại học đều ở mức độ của Sandel. Song các giảng viên đại học đều làm việc theo cùng cách thức như vậy (họ suy nghĩ và công bố các suy nghĩ của họ trong các bài giảng, rồi xuất bản thành bài báo hoặc thành sách), và đại học cũng phải được tổ chức theo một mô hình nhất định để đảm bảo cho các nhân vật như Sandel xuất hiện.

Để có thể phát triển thì không thể không thay đổi. Bởi lẽ bản thân khái niệm “phát triển” bao hàm trong nó ý niệm về sự thay đổi. Có lẽ đây là thời điểm ta cần trả lời dứt khoát một số câu hỏi: Ta có muốn thay đổi không? Ta có đủ các điều kiện cần cho sự thay đổi hay không? Ta có khả năng tạo ra các điều kiện cho sự thay đổi và có khả năng thực hiện các thay đổi hay không? Nếu từ chối thay đổi thì ta sẽ tồn tại như thế nào trong cái thế giới đang thay đổi với tốc độ chóng mặt này?

Cuối cùng, xin mượn lại câu hỏi của Sandel, “Justice: What’s the Right Thing to do?” Tôi biến đổi câu hỏi ấy chút ít để kết thúc, hoặc để mở ra:

Đại học Việt Nam: cái gì là điều đúng phải làm?

---

1. Bản dịch tiếng Việt của Hồ Đắc Phương vừa được NXB Trẻ ấn hành năm 2011, với nhan đề:
Phải trái đúng sai.

2. Đây là các đường dẫn giới thiệu về bài giảng của Michael Sandel:
http://www.justiceharvard.org/
http://www.justiceharvard.org/watch/
Chúng ta có thể vào đường dẫn dưới đây để xem nội dung của tiết giảng thứ nhất
http://www.justiceharvard.org/2011/03/episode-01/#watch

3. Hiện tượng nhiều công trình giá trị được xuất bản từ bài giảng ở đại học là một hiện tượng tương đối phổ biến ở các nước có nền khoa học phát triển. Ta biết những trường hợp điển hình như cuốn Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của Ferdinand de Saussure, cuốn L’herméneutique du sujet v�Le courage de la vérité của Michel Foucault.

4. Thực ra trong cuốn sách còn xuất hiện cả David Hume, Jean-Jacques Rousseau, Jeremy Bentham và nhiều người khác.

5. Michael Sandel, Phải trái đúng sai, Hồ Đắc Phương dịch, NXB Trẻ, Tp HCM, 2011, tr. 46

6. Phải trái đúng sai, sđd, tr. 198

7. Phải trái đúng sai, sđd, tr. 362

8. Chính cơ chế tạo điều kiện cho giảng viên phát triển nghiên cứu, kết hợp với cơ chế để cho sinh viên tự do lựa chọn môn học, sẽ là một trong những yếu tố góp phần xác định giảng viên có đáp ứng được yêu cầu của đại học không, có đủ năng lực để làm việc ở đại học không. Đại học muốn có chất lượng thì một trong những điều kiện căn bản nhất là phải có một đội ngũ giảng viên đảm bảo được chất lượng đại học. Và một trong những điều kiện căn bản để giảng viên đảm bảo được chất lượng đại học (ngoài phẩm chất tư duy và nỗi lực tự thân của họ) là đời sống của họ phải được đảm bảo để họ có thể tập trung cho công việc của mình ở trường đại học. Chừng nào các nhà quản lý còn chưa nhận thức được điều này và chưa có những chính sách để hiện thực hóa nó, chừng đó vẫn chưa có hy vọng gì đối với việc nâng cao chất lượng đại học, và chuyện hội nhập với thế giới chắc vẫn chỉ là một mơ ước mang tính không tưởng.

9. Ta biết rằng ở đại học phương Tây, Kant, Nietzsche, Heidegger… các triết gia nói chung (cả các triết gia phương Đông), không chỉ được giảng dạy ở khoa Triết, mà còn được nghiên cứu ở tất cả các khoa về khoa học xã hội và nhân văn.

Nguồn: Tạp chí Tia Sáng

Đưa tri thức mới vào nền kinh tế

Từng là Bộ trưởng Kinh tế Slovenia ngay từ những ngày đầu tách khỏi LB Nam Tư, Tea Petrin tham gia hoạch định những chính sách phát triển kinh tế của đất nước. Theo quan điểm của bà, kinh tế tri thức là sự kết nối giữa các thành phần kinh tế trong xã hội để tạo ra dòng chảy tri thức cập nhật mà tất cả mọi người cùng được hưởng lợi.
Dưới đây là bài phỏng vấn bà Tea Petrin của tạp chí Tia Sáng.

Bà có thể điểm qua một số thay đổi chính của Slovenia sau khi độc lập?

Trước khi độc lập, Slovenia có một thị trường lớn ở Nam Tư. Năng lực chế tạo của chúng tôi khá phát triển, sản xuất những sản phẩm chất lượng cao trong ngành điện tử, công cụ, dệt may. Các sản phẩm này được bán rộng rãi tại các nước thuộc Liên bang Nam Tư và các nước Đông Âu.

Tuy nhiên, những thị trường truyền thống này bị mất khi Slovenia độc lập. Trong khi thị trường nội địa với 2 triệu dân là quá nhỏ, Slovenia buộc phải cạnh tranh với nhập khẩu từ Tây Âu đồng thời tìm cách tăng xuất khẩu vào thị trường này. Chúng tôi nhận thức rằng năng xuất và sản phẩm của chúng tôi không đạt được ở mức tiêu chuẩn cao so với các nước châu Âu khác. Điều đó thúc đầy các công ty của Slovenia phải nâng cao trình độ công nghệ, quản lý và tổ chức.

Tea Petrin hiện là giáo sư kinh tế và khởi sự kinh doanh tại khoa Kinh tế đại học Ljubjana và là giáo sư thỉnh giảng đại Đại học California, Berkeley, Đại học Massachusetts.

Bà từng là Bộ trưởng Kinh tế của Slovenia (1999-2004) và là đại sứ của Cộng hòa Slovenia tại Hà Lan (2004-2008).

Giáo sư Tea Petrin là Trưởng nhóm chính sách cụm của Liên minh châu Âu (2009-2010).

Bà là chuyên gia của tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hiệp quốc từ những năm 1990. 
Đâu là vai trò Chính phủ trong việc đổi mới cải thiện năng lực sản xuất của nền kinh tế?

Mặc dù tính cạnh tranh, đổi mới và tinh thần kinh doanh thường tới từ lĩnh vực tư nhân, không thể phủ nhận rằng thành công kinh doanh phụ thuộc vào chính sách của Chính phủ trong việc tạo ra những điều kiện phù hợp cho nền kinh tế hoạt động.

Tôi làm việc cho Chính phủ vào thời điểm đó. Chúng tôi đã tập hợp thông tin về nền kinh tế bằng cách đi thăm các công ty, và tìm kiếm qua các nghiên cứu. Dựa vào các thông tin này chúng tôi đã đề ra các chính sách mới. Nguyên tắc của chúng tôi là không trợ giúp nhiều cho những doanh nghiệp không hiệu quả mà khởi động những chương trình kinh tế trên quy mô rộng, sử dụng những khoản tiền nhỏ cho việc truyền bá vào nền kinh tế những kinh nghiệm và tri thức cơ bản phục vụ kinh doanh sản xuất trong bối cảnh thị trường còn thiếu những kinh nghiệm này.

Chính sách này đã được thiết kế để khắc phục chênh lệch khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp vào năm 1999. Khi đó, tăng trưởng của chúng tôi chỉ là 3%. Chúng tôi hiểu tầm quan trọng của tri thức để đạt được vị trí phát triển mới. Tri thức không ngừng được tạo ra trong xã hội, và trên thế giới nhưng nếu bạn không bắt kịp bạn sẽ không tiến bộ. Bên cạnh đó, nếu chỉ đưa ra một vài mục tiêu nhưng không có kế hoạch chiến lược để đạt được các mục tiêu này thì tất cả chỉ là mong ước. Đó là lý do tại sao các chính sách chiến lược lại quan trọng.

Cụ thể là nhà quản lý đã tương tác với doanh nghiệp như thế nào?

Chúng tôi nhận thấy sự phát triển về kinh tế phụ thuộc vào sự phát triển về công nghệ, tri thức và tinh thần kinh doanh. Các quốc gia phát triển ở mức cao là những quốc gia có trình độ công nghệ phát triển và luôn có những tiến bộ. Vấn đề chính là phải giúp các công ty nâng cao trình độ công nghệ. Tinh thần kinh doanh là động cơ của thay đổi và phát triển. Doanh nhân luôn tìm kiếm những cái mới (về công nghệ, sản phẩm hay thị trường), có nghĩa là họ mang đổi mới tới cho nền kinh tế. Ở đây, không chỉ đổi mới mang tính chất đột phá mới cần thiết, mà thường những đổi mới nhỏ như những thay đổi về thiết kế, chất lượng, quy trình sản xuất cũng rất quan trọng.

Khi chúng tôi đưa ra các chính sách mới, chúng tôi mời các công ty, đại diện của các công ty nhỏ và lớn vì chúng tôi muốn tác động tới cả nền kinh tế. Chúng tôi đã thành lập các ủy ban về cạnh tranh, công nghệ, du lịch… Thành viên của các ủy ban là đại diện từ các bộ, trường đại học, doanh nghiệp và các cơ quan phát triển. Chúng tôi gặp mặt hai tuần một lần kể từ đầu năm 1999, rồi sau này mỗi tháng một lần.

Chúng tôi làm việc chặt chẽ và chuyên nghiệp với công ty. Chúng tôi học từ họ và cố gắng tìm hiểu xem họ biết gì, đâu là những vấn đề tồn tại, làm thế nào để giúp họ, ví dụ như trong việc khuyến khích đổi mới công nghệ.

Làm sao để đảm bảo các chính sách gắn kết với thực tiễn?

Chúng tôi cố gắng hiểu về thực trạng của nền kinh tế. Nếu chúng tôi chỉ ở trong các văn phòng và đề ra các chính sách không gắn với thực tế, sẽ không có kết quả. Chúng tôi muốn có những tri thức hữu dụng. Hiệu quả của việc đầu tư vào nền kinh tế tùy thuộc vào mức độ hiểu biết về vấn đề của nền kinh tế. Khi chúng tôi hiểu rõ những vấn đề chính, chúng tôi có thể đề ra các chính sách và các hợp đồng thầu để khuyến khích các công ty nâng cấp và khắc phục các vấn đề của họ.

Chính sách mà chúng tôi đề ra nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề chính của nền kinh tế: trình độ công nghệ, quản lý, và tổ chức còn tương đối thấp. Để cải tiến công nghệ, chúng tôi đưa ra các hợp đồng về hỗ trợ cải tiến công nghệ trong đó tất cả các công ty đều có thể nộp hồ sơ. Chúng tôi không đưa tiền trực tiếp cho bất cứ công ty nào mà tiến tuyển chọn cạnh tranh. Ví dụ, khi công ty muốn thực hiện sản xuất tinh gọn họ cần tri thức nhất định về quá trình sản xuất và quản trị. Tri thức này thiếu vắng trong hầu hết các công ty. Các công ty mong muốn nâng cấp công nghệ phải nộp hồ sơ xin hỗ trợ, sau đó nếu đáp ứng được các tiêu chí của chúng tôi thì sẽ nhận được hỗ trợ của Chính phủ.

Không chỉ đổi mới mang tính chất đột phá mới cần thiết, mà thường những đổi mới nhỏ như những thay đổi về thiết kế, chất lượng, quy trình sản xuất cũng rất quan trọng.
Các hợp đồng hỗ trợ cải tiến công nghệ không dễ viết. Chúng tôi phải đưa ra thông điệp rõ ràng cho các công ty: họ sẽ phải làm gì, chúng tôi mong muốn gì ở họ. Ví dụ Bộ kinh tế đã đưa ra các hợp đồng hỗ trợ cho 20 chương trình trọng điểm (“20 keys program”). Bộ kinh tế khuyến khích và hỗ trợ về tài chính cho việc vận dụng các cách tiếp cận thực tế theo những kinh nghiệm quốc tế thành công đã được công nhận trên thế giới để đưa ra chiến lược đổi mới từng bước. 20 chương trình trọng điểm bao gồm tất cả các hoạt động của doanh nghiệp, cho phép các công ty tham gia có thể xác định được họ đang ở đâu so với các công ty hàng đầu thế giới. Với việc triển khai 20 chương trình trọng điểm, tính cạnh tranh của một doanh nghiệp được nâng cao bắt nguồn từ quản lý công nghệ và việc tổ chức cải tiến công việc một cách liên tục từ cấp độ sản xuất thô sơ nhất, cho phép phát triển sản phẩm nhanh hơn với chất lượng cao hơn và chi phí ít hơn.


Vì sao cần phát triển các cụm công nghiệp?


Khi bắt đầu triển khai chương trình chính sách công nghiệp mới, hầu hết các công ty đều mong muốn nâng cao năng suất. Chúng tôi giải quyết ở cả hai mặt: với công ty và với các quần thể công nghiệp. Đối với nâng cao năng suất của quần thể công nghiệp, chúng tôi khuyến khích phát triển các cụm kinh doanh trong đó khả năng đổi mới sáng tạo được xây dựng và tăng cường thông qua sự tương tác giữa các công ty trong cụm và giữa các cụm với nhau. Để nâng cao năng suất công ty, chúng tôi tìm cách để giúp các công ty thu nhận tri thức mới nhất cần thiết cho việc tổ chức sản xuất.

Vấn đề phổ biến hiện nay thiếu một dòng luân chuyển tri thức giữa khu vực công nghiệp và giới khoa học cũng như giữa các doanh nghiệp với nhau. Mỗi thành phần như những ốc đảo cô lập.
Nếu bạn muốn trở nên sáng tạo, bạn phải quan sát và tìm hiểu thông tin qua khách hàng cũng như các nhà cung cấp. Vấn đề phổ biến hiện nay thiếu một dòng luân chuyển tri thức giữa khu vực công nghiệp và giới khoa học cũng như giữa các doanh nghiệp với nhau. Mỗi thành phần như những ốc đảo cô lập. Những người làm nghiên cứu nói rằng họ làm nghiên cứu tốt nhưng các doanh nghiệp thì không cần các nghiên cứu này; trong khi đó các công ty thì than phiền bên nghiên cứu không tạo ra được tri thức liên quan tới nhu cầu của họ. Những người ở các trường đại học thì rất giỏi nói về điều nên làm nhưng rất yếu trong việc biến tri thức của họ trở thành các sản phẩm bán được trên thị trường.


Đó là lý do tại sao chúng tôi khuyến khích phát triển cụm hợp tác để tạo điều kiện phát triển kết nối giữa công ty và các cơ sở nghiên cứu nhằm chia sẻ tri thức và thông tin. Ở đây, lòng tin đóng vai trò quan trọng. Các công ty không dễ chia sẻ tri thức vì họ xem các công ty khác là đối thủ. Đây là cách suy nghĩ cũ. Chúng tôi cần phải khuyến khích họ khắc phục cách kinh doanh theo kiểu cũ này.

Làm thế nào để khuyến khích kết nối giữa các công ty và các cơ sở hỗ trợ?

Đầu tiên, chúng tôi giải thích về khái niệm cụm công nghiệp. Chúng tôi tổ chức các cuộc gặp tại văn phòng thương mại, mời đại diện của các công ty, cơ sở nghiên cứu, trường học và các cơ quan. Chúng tôi bàn luận về khái niệm cụm và làm thế nào để khuyến khích sự hợp tác giữa các công ty độc lập, và các đơn vị liên quan khác, về lợi ích của tạo lập cụm. Bằng cách chia sẻ tri thức bạn sẽ nâng cao nhận thức chung và tạo ra sự thông hiểu lẫn nhau, điều không thể có nếu chỉ đơn thuần đầu tư bằng tiền bạc. Chúng tôi cũng tổ chức đào tạo cho quản lý cụm.

Chúng tôi hỗ trợ các công ty trong cụm thí điểm và cũng hỗ trợ các quản lý trong vòng 3 năm. Nếu mạng lưới hoạt động tốt, các công ty nhận thấy lợi ích, cụm sẽ được phát triển và các công ty mới sẽ tham gia cụm.
Chúng tôi khuyến khích việc thành lập các cụm bằng cách đưa ra hợp đồng mời các nhóm khoảng 10 doanh nghiệp và 3 tổ chức hỗ trợ (nghiên cứu phát triển hoặc trường đại học). Khi nộp đơn, họ sẽ phải nói rõ mong muốn, cam kết làm việc cùng nhau và kỳ vọng từ việc tạo dựng mạng lưới, đưa ra kế hoạch hành động với sứ mạng và tầm nhìn về dự định họ sẽ hoàn thành trong giai đoạn 5 năm. Với hợp đồng đầu tiên dạng này, 6 nhóm nộp đơn và chúng tôi lựa chọn 3 nhóm để thành lập cụm thí điểm về ô tô, vận tải và chế tạo công cụ.


Tại các cụm thí điểm này, người ta bầu ra một người đại diện gọi là quản lý cụm. Các quản lý cụm độc lập với các công ty và họ làm việc vì lợi ích của công ty. Họ là những người khuyến khích kết nối giữa các công ty trong cụm. Họ tìm kiếm cơ hội phát triển kinh doanh, đưa thông tin tới công ty. Chúng tôi hỗ trợ các công ty trong cụm thí điểm và cũng hỗ trợ các quản lý trong vòng 3 năm. Nếu mạng lưới hoạt động tốt, các công ty nhận thấy lợi ích, cụm sẽ được phát triển và các công ty mới sẽ tham gia cụm. Chúng tôi khuyến khích sự hợp tác của các công ty trong một chuỗi giá trị. Cụm ô tô đã rất thành công. Người quản lý cụm này đã được nhận giải thưởng đầu tiên cuả EU, sau đó từ năm 2006 EU bắt đầu có giải thưởng dành cho quản lý cụm.

Các trường học và cơ quan nghiên cứu gắn kết với các cụm công nghiệp như thế nào?
Chúng tôi làm việc với các bộ khác như Bộ khoa học và giáo dục để khuyến khích hợp tác giữa các công ty và các cơ sở R&D, trường đại học. Ví dụ, để lôi kéo những người làm nghiên cứu sang doanh nghiệp, chúng tôi có những hợp đồng theo đó Chính phủ sẽ trả lương cho nghiên cứu trẻ trong hai năm. Công ty sẽ phải viết báo cáo về nghiên cứu trẻ đang làm gì trong thời gian nhận tài trợ, nếu công ty không đáp ứng được các yêu cầu được quy định trong hợp đồng thì sẽ phải trả lại tiền. Nhưng những trường hợp như vậy đã không xảy ra. Công ty đều sử dụng các nhà nghiên cứu trẻ để mang tới giá trị thặng dư cho công ty.

Để kết nối công ty với giới khoa học, chúng tôi đưa ra chương trình voucher (một hình thức tài trợ của Chính phủ, với các voucher này, doanh nghiệp có thể tiến hành thuê tư vấn bên ngoài mà không phái trả tiền hoặc chỉ trả một phần) dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ năm 2004, với hệ thống này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ được khuyến khích tiếp xúc với các tổ chức hỗ trợ để tiếp thu tri thức mới. Ban đầu khi chương trình được đưa vào, doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sử dụng voucher để thuê công ty tư vấn nâng cao khả năng quản lý, sau đó voucher về tư vấn, đổi mới được đưa vào. Hiện nay voucher được đưa vào nhằm mục đích hỗ trợ quá trình tái cấu trúc kinh doanh (nhấn mạnh tới phát triển bền vững). Hệ thống voucher này đã được EU thừa nhận là một trong những biện pháp hỗ trợ tốt nhất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Làm sao để đảm bảo tính minh bạch cho quỹ hỗ trợ đổi mới công nghệ của Chính phủ dành cho các công ty?

Để tăng sự minh bạch, chúng tôi đưa ra những tiêu chí và quy trình tuyển chọn rõ ràng qua qua các công thông tin đại chúng để mọi người có thể kiểm tra. Bên cạnh đó, chúng tôi có một ủy ban đánh giá độc lập bao gồm những người hiểu rõ về công nghiệp, quản lý và tài chính, và có vai trò độc lập về chính trị.
Để tăng sự minh bạch, chúng tôi đưa ra những tiêu chí và quy trình tuyển chọn rõ ràng qua qua các công thông tin đại chúng để mọi người có thể kiểm tra. Bên cạnh đó, chúng tôi có một ủy ban đánh giá độc lập bao gồm những người hiểu rõ về công nghiệp, quản lý và tài chính, và có vai trò độc lập về chính trị. Ví dụ, Quỹ Doanh nghiệp của Slovenia (SEF), cơ quan nhà nước, được thành lập để xét duyệt tài chính cho các giai đoạn phát triển khác nhau của công ty – các dự án thương mại của các công ti vừa và nhỏ, và cung cấp vốn cho các công ty mới thành lập dựa trên nguyên tắc cạnh tranh. SEF cũng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tài chính của quốc gia và quốc tế, ví dụ các ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư và phát triển Slovenia, Quỹ đầu tư châu Âu (EIF) và Hiệp hội bảo hiểm châu Âu. Một công ty mới thành lập nếu thành công trong đấu thầu có thể nhận được từ SEF 70.000 euros để khởi sự và hoạt động trong vòng 3 năm. Một số doanh nghiệp khởi đầu bị thất bại, nhưng một số trở thành những công ty thành công. Theo triết lý của đầu tư mạo hiểm, đây là tiền “giống” để các công ty mới xuất hiện. Thành công chỉ của một vài công ty nhưng doanh thu đủ lớn để bù đắp lại những hao hụt của quỹ đầu tư đã rót vào các công ty thất bại.


Mối liên hệ giữa nghiên cứu và giảng dạy ở Slovenia

Tea Petrin đang giảng dạy tại ĐH Ljubjana, một trong những trường đại học tốt nhất của Slovenia và được xếp trong số 500 trường đại học tốt nhất của thế giới. Đội ngũ cán bộ giảng dạy ở đây cũng đồng thời nghiên cứu và giảng dạy do quan điểm cho rằng không có nghiên cứu thì tri thức trở nên lỗi thời. Tại trường của Tea Petrin, 20-30% lương của giáo sư từ nghiên cứu. Các giảng viên cố gắng mang những tri thức mới nhất vào giảng dạy.

Các giảng viên và trợ giảng cần phải có 3 tháng ở nước ngoài trước khi đảm nhận vị trí cao hơn ở trường đại học. Các giáo sư quốc tế được mời tới giảng dạy ở các chương trình tiến sĩ. Trường đại học cũng là nơi tổ chức hội thảo cho công chúng bên ngoài (công ty và các cơ quan nhà nước) nhằm trao đổi tri thức. Sinh viên đánh giá giáo sư sau mỗi khóa học. Viêc này làm tăng thêm áp lực cho đội ngũ giảng dạy nhưng giúp chúng tôi tự đánh giá.

Tại một số trường kỹ thuật, thiết bị tại các phòng thí nghiệm ban đầu khá lạc hậu. Do vậy, người ta đã đề ra sáng kiến: thuyết phục các công ty tốt nhất mua các thiết bị cho các trường kỹ thuật và những chi phí này sẽ không phải chịu thuế. Bên cạnh đó, các công ty còn có thể cử nhân viên tới làm việc tại các phòng thí nghiệm này.

BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ: VỤ ÁN CÁI CỬA SỔ

Vì những chiếc cửa sổ mở không đúng cách mà hai nhà hàng xóm “choảng” nhau!
Trổ cửa sai!
Khi làm nhà, gia đình ông Đ. (Từ Liêm, Hà Nội) đã trổ mười cửa sổ nhìn thẳng sang phía nhà anh S. hàng xóm. Thấy việc trổ cửa không đúng quy cách (phải cách ranh giới đất với nhà bên cạnh ít nhất hai m), anh S. đã… thắc mắc. Tuy nhiên, nhà vẫn cứ được xây lên và cửa sổ vẫn được mở.
Vụ việc sau đó được đưa ra TAND huyện Từ Liêm để nhờ tòa giải quyết… Năm 2003, xử vụ án tòa đã tuyên buộc gia đình ông Đ. phải xây bít mười cửa sổ này lại để không ảnh hưởng nhà hàng xóm…

Sau khi tòa xử, phía ông Đ. đã khắc phục bằng cách “bắn” tôn ở ngoài và khẳng định cửa luôn đóng. Phía anh S. không chấp nhận nên khiếu nại lên cơ quan chức năng, buộc phía bên kia phải xây bít như nội dung bản án. Ban chỉ đạo Thi hành án (THA) Từ Liêm đã họp lại nhiều lần nhưng vẫn không giải quyết được. THA dân sự Từ Liêm thấy vụ việc quá… rối nên đã chuyển hồ sơ, đề nghị THA dân sự TP Hà Nội tổ chức thi hành án. Cơ quan cấp trên này đã nhận định đây là tranh chấp phức tạp nên yêu cầu lãnh đạo Cục THA dân sự – Bộ Tư pháp, Vụ Kiểm sát THA – VKSND tối cao, cơ quan THA, TAND và một số cơ quan tư pháp của TP Hà Nội và huyện Từ Liêm tổ chức họp, tư vấn bàn biện pháp giải quyết… Tuy nhiên cho đến nay, cuộc họp tư vấn này vẫn chưa được tổ chức (!?) và gần năm năm, những chiếc cửa sổ vẫn làm ảnh hưởng tình cảm hai nhà…
Mất tình lối xóm!
Hàng ngày vào ra, thấy những chiếc cửa sổ chưa được xây bít, anh S. bực bội. Anh cho rằng sinh hoạt gia đình anh vẫn bị người khác nhìn ngó vì nó chĩa thẳng vào các phòng nhà anh, trong đó có phòng ngủ. Lý ra những sinh hoạt gia đình là chuyện riêng tư, bất khả xâm phạm nhưng cửa mở thì hổng còn gì là riêng tư nữa… Nó làm anh phiền lòng quá! Còn phía bên kia thì cho rằng có chăng họ mở chỉ là để lấy chút ánh sáng (cửa chủ yếu làm bằng kính), còn họ chẳng có hơi sức đâu mà nhìn sang nhà… thiên hạ!
Gay cấn lên đến đỉnh điểm, rồi xảy ra xô xát vào mùa hè năm ngoái. Nhà ông Đ. có giỗ nhưng lại bị mất điện. Quá nóng bức, khách khứa không biết nội tình nên vô tình mở cửa sổ ra cho mát.
Thấy vậy, phía anh S. lập tức lấy cây đẩy cánh cửa vào. Sau đó, con trai ông Đ. đã sang xin mở cửa nhờ một lúc cho thoáng nhưng anh S. không đồng ý. Hai bên lời qua tiếng lại rất gay. Ngay sau đó, anh này về nhà kéo thêm anh em, bạn bè khoảng gần chục người sang hành hung phía anh S. làm nhiều người phải đi cấp cứu. Phía anh S. lập tức gửi đơn đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người đã hành hung người nhà anh…
Từ những chiếc cửa sổ vô tri, vô tình làm tình cảm lối xóm sứt mẻ trầm trọng… Sự việc có lẽ sẽ không đến nỗi nghiêm trọng nếu các bên tuân theo luật (nhất là khi đã có bản án), các cơ quan chức năng kiên quyết giải quyết dứt điểm. Mong rằng trong thời gian ngắn nhất tới đây, trong sẽ ấm, ngoài sẽ êm…
Chỉ được mở các cửa đi, cửa sổ, lỗ thông hơi trên các bức tường cách ranh giới đất với nhà bên cạnh ít nhất 2m.
Khi mở cửa, cần có biện pháp tránh tia nhìn trực tiếp vào nội thất nhà bên cạnh.
(Theo Quy chuẩn Xây dựng Việt Nam)
Nguồn: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM

QUẢN LÝ TÀI SẢN, “CHUYỆN KHÔNG DỄ” ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG

Các ngân hàng thương mại kinh doanh thu lợi nhuận bằng cách bán những tài sản nợ và dùng tiền thu được để mua những tài sản có. Nói một cách khác, các ngân hàng cung cấp dịch vụ chuyển một loại tài sản này thành một loại tài sản khác cho công chúng.
Có thể nói, hoạt động cơ bản của một ngân hàng là làm cho tài sản có và tài sản nợ phù hợp với nhu cầu của khách hàng, của người tiêu dùng. Xét về mặt nghiệp vụ kinh doanh, quá trình chuyển các tài sản và cung cấp một loạt các dịch vụ: huyy động vốn, ghi chép sổ sách, thanh toán séc, thủ quỹ, cho vay, thu nợ, phân tích tín dụng, thực hiện nhiệm vụ với ngân sách nhà nước,… cũng giống như hoạt động của mọi doanh nghiệp khác. Ngân hàng nào tạo ra được những dịch vụ tốt với chi phí thấp và có doanh thu cao do tài sản đem lại thì ngân hàng ấy thu được nhiều lợi nhuận, nếu không làm được như vậy thì ngân hàng ấy phải chịu thua lỗ.
Để thu được lợi nhuận cao, trước hết ngân hàng phải chú ý giải quyết tốt các vấn đề:
- Đảm bảo chắc chắn lúc nào ngân hàngcũng dự trữ đủ tiền mặt và vốn trên tài khoản để thanh toán kịp thời, nhanh chóng cho những người gửi tiền khi họ yêu cầu rút tiền.
- Giành được những tài sản có làm ăn hiệu quả, ít có khả năng phá sản và đa dạng hoá việc nắm giữ những tài sản có.
- Giành được những tài sản nợ có chi phí thấp.
Quản lý khả năng tiền mặt và vai trò của tiền dự trữ của một ngân hàng thương mại.
Khi có hiện tượng nhiều người gửi tiền ở ngân hàng HSBC rút tiền mặt từ những tài khoản séc hoặc tài khoản tiết kiệm, hoặc phát séc đến ngân hàng Citibank thì việc nắm giữ những khoản tiền dự trữ quá mức cho phép của ngân hàng HSBC sẽ tránh khỏi các phí tổn do thu về bán tháo các khoản cho vay; bán các chứng khoán, vay chiết khấu …

Như vậy, các khoản vốn dự trữ quá mức quy định của ngân hàng trung ương có tác dụng chống đỡ lại các chi phí kèm theo với dòng tiền rút khỏi ngân hàng. Các chi phí này càng lớn các ngân hàng càng muốn giữ nhiều tiền dự trữ quá mức. Để giảm bớt thiệt hại của chi phí này, các ngân hàng như ngân hàng HSBC, ngân hàng Bank of American, CitiBank thường chuyển đổi cách nắm giữ tài sản của họ sang những chứng khoán lỏng hơn như trái phiếu chính phủ.
Quản lý tài sản có:
Quản lý tài sản có của ngân hàng là việc chuyển hoá nguồn vốn tín dụng thành tiền mặt và tài sản sinh lợi. tức là việc phân chia vốn giữa tiền mặt, tín dụng, đầu tư, chứng khoán và các tài sản khác.
Để đảm bảo biện pháp này, trước hết, ngân hàng hàng đầu của Mỹ, Citibank tìm những những người vay vốn có uy tín, không lừa đảo, trả lãi suất cao, bằng cách trực tiếp đến công ty để quảng cáo và chào mời các khoản tín dụng. Sau đó, giám đốc Citibank quyết định những ai có thể được ngân hàng cho vay tức là họ có thể trả vốn và lãi đúng hạn hay không? Cũng không nên quá thận trọng vì sẽ mất đi những cơ hội cho vay hấp dẫn có thể cho vay với lĩa suất cao.
Tiếp theo, Citibank tìm mua những chứng khoán có lãi suất cao, rủi ro thấp, đồng thời cũng cố gắng để đa dạng hoá các loại chứng khoán.
Cuối cùng, Citibank luôn chú ý quản lý tài sản theo trạng thái lỏng nghĩa là vừa thoả mãn được nhu cầu dự trữ vừa không chịu phí tổn về dự trữ, nghĩa là phải nắm giữ chứng khoán lỏng ngay cả trong trường hợp chúng có lãi suất thấp so với tài sản khác nhưng chúng có thể nhanh chóng chuyển hoá thành tiền mặt. Những chứng khoán của chính phủ dùng làm khoản dự trữ cấp hai là loại chứng khoán lỏng tốt nhất.
Các loại tài sản của ngân hàng thương mại bao gồm bốn loại: khoản mục ngân quỹ, đầu tư chứng khoán, tín dụng và tài sản cố định.
Hầu hết tích sản của các ngân hàng thương mại là các khoản nợ về tài chính do lợi tức của ngân hàng phần lớn thu được từ việc cho vay và đầu tư nên ngân hàng giữ kỳ phiếu, trái phiếu và các công cụ tài chính khác đều có khả năng sinh lợi.
Quản lý tài sản nợ:
Việc này đòi hỏi cân nhắc các rủi ro phụ cũng như khoản chênh lệch giữa chi phí vay vốn (chủ yếu là lãi suất vay của các ngân hàng khác) và mức lợi nhuận có thể thu được khi đầu tư vào tín dụng và chứng khoán. Mục tiêu chính của phương thức quản lý này là bảo đảm thanh khoản của ngân hàng, bảo đảm đủ vốn cho nhu cầu tín dụng hợp lệ và duy trì lãi suất cơ bản ròng và doanh lợi.
Ngoài việc coi các khoản tiền gửi có thể phát séc là nguồn vốn tín dụng hàng đầu, các ngân hàng còn tìm cách thu hút thêm nguồn vốn đi vay mới bằng cách phát hành các loại phiếu ngân hàng, phát hành tài sản nợ, … để tăng thêm vốn vay.

Nguồn: BUSINESS WORLD PORTAL

ĐĂNG KÝ BẤT ĐỘNG SẢN VÀ VẤN ĐỀ MINH BẠCH HÓA THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM

1. Dẫn đề
  Cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp trên thị trường bất động sản tại Hoa Kỳ làm suy thoái nền kinh tế của hầu hết các nước trên thế giới đã chứng tỏ những ảnh hưởng rất lớn từ thị trường bất động sản đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Điều này cho thấy rằng, quản lý hiệu quả đối với thị trường này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhóm chủ thể tham gia trên thị trường trong sự hài hoà lợi ích của Nhà nước luôn là một đòi hỏi mang tính thường trực đối với các nhà hoạch định chính sách.
Để đạt được mục tiêu này, một hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô tác động và điều tiết các hoạt động trên thị trường bất động sản sẽ phải được sử dụng, trong đó công khai thông tin nhằm lành mạnh hoá các giao dịch được xem là vấn đề cốt lõi. Tuy nhiên, không phải ở đâu và vào bất kỳ thời điểm nào cũng có thể dễ dàng tìm ra những lời giải thoả đáng cho bài toán minh bạch hoá thị trường bất động sản. 
Tại Việt Nam, chỉ số minh bạch của thị trường bất động sản năm 2006 đứng cuối bảng xếp hạng 56 nước trong vùng lãnh thổ Châu Á – Thái Bình Dương theo xếp hạng của Tập đoàn Jones Lang LaSalle, một tập đoàn hàng đầu thế giới về quản lý tiền tệ và dịch vụ bất động sản. Đánh giá về chỉ số này, nhiều chuyên gia bất động sản cho rằng, xếp hạng của Jones Lang LaSalle là hoàn toàn có cơ sở. Bởi lẽ, cả 5 tiêu chí đánh giá, xếp loại mức độ minh bạch của thị trường bất động sản bao gồm: các chỉ số hoạt động đầu tư, các thông tin cơ bản về thị trường bất động sản, sự công khai về thông tin tài chính và quản trị của các tổ chức, công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán, các yếu tố pháp luật và quy định, tiêu chuẩn đạo đức và tính chuyên nghiệp; Việt Nam đều không đáp ứng được. Thực tế này đòi hỏi nhiều hơn sự bứt phá trong chính sách và pháp luật của Việt Nam trong việc xây dựng một thị trường bất động sản lành mạnh, có sức thúc đẩy mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế – xã hội.

2. Sự cần thiết minh bạch hoá thị trường bất động sản của Việt Nam
Thứ nhất,minh bạch hoá thị trường bất động sản nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế – quốc tế
Minh bạch hóa là một thuật ngữ pháp lý mới, được nhắc đến nhiều sau khi Việt Nam ký kết và thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ. Minh bạch hoá cũng là một trong các cam kết quan trọng mà Việt Nam cần phải thực hiện ngay sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.Điều này cho thấy rằng, minh bạch hoá thị trường bất động sản với nội dung công khai hoá thông tin, tăng tính dự báo và khả năng tiếp cận thông tin về thị trường bất động sản được xem là một yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế – quốc tế. Hay nói cách khác, minh bạch hoá thị trường bất động sản trong điều kiện hội nhập được hiểu là một nghĩa vụ pháp lý bị chi phối và ràng buộc bởi các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.
Thứ hai, minh bạch hoá thị trường bất động sản xuất phát từ vai trò của thị trường này đối với sự phát triển kinh tế – xã hội
Thị trường bất động sản là một trong những thị trường đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia có mối quan hệ mật thiết với nhiều thị trường như thị trường vật liệu xây dựng, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ và đặc biệt là thị trường tài chính – tiền tệ. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, ở các nước phát triển nếu đầu tư vào lĩnh vực bất động sản tăng lên 1 USD thì sẽ có khả năng thúc đẩy các ngành liên quan của nền kinh tế phát triển từ 1,5 đến 2 USD. Điều này cho thấy rằng, quản lý có hiệu quả thị trường này sẽ góp phần quan trọng vào quá trình thúc đẩy nền kinh tế phát triển, giải quyết nhu cầu bức xúc ngày càng gia tăng về nhà ở cho nhân dân, đóng góp thiết thực vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba, minh bạch hóa thị trường bất động sản xuất phát từ nhu cầu nâng cao hiệu quả của việc quản lý nhà nước theo đòi hỏi nội tại của thị trường bất động sản.
Từ nhiều năm qua, việc công khai thông tin về tình trạng pháp lý của bất động sản vẫn chưa thực sự được chú trọng theo đúng vai trò của nó trong việc lành mạnh hoá thị trường bất động sản. Thêm vào đó, việc Nhà nước duy trì nhiều hệ thống cơ quan quản lý và đăng ký bất động sản trong khi bất động sản thường là một thể thống nhất về hiện trạng và tình trạng pháp lý đã làm cho hệ thống thông tin về bất động sản thiếu tính đồng bộ và thống nhất. Một tư duy quản lý và lịch sử lưu trữ thông tin về bất động sản như vậy đã dẫn đến hệ quả, Nhà nước không thể kiểm soát được đầy đủ các diễn biến của thị trường bất động sản để có thể kịp thời đưa ra những phản ứng chính xác theo tín hiệu của thị trường. Do đó, để hướng đến một thị trường bất động sản có tính minh bạch cao, các yếu tố tâm lý – pháp lý trong quản lý nhà nước đối với thị trường bất động sản nói trên sẽ phải nhanh chóng có sự thay đổi.
Thứ tư, minh bạch hoá thị trường bất động sản được thừa nhận là công cụ hữu hiệu để ngăn ngừa và phòng chống hiệu quả những biểu hiện tiêu cực trong tiếp cận và sử dụng thông tin về bất động sản
Thực tế cho thấy, tuy thị trường bất động sản của Việt Nam ở trong tình trạng thiếuthông tin, nhưng một số bộ phận các nhà đầu tư vẫn có được những thông tin “không chính thức”. Điều này cho thấy rằng, không loại trừ khả năng thông tin về bất động sản bị “tắc nghẽn” ở đâu đó; và việc có được nguồn thông tin này tuỳ thuộc vào nguồn lực con người và nguồn tài chính của người muốn tiếp cận[1]. Thực tế này đòi hỏi nhiều hơn nỗ lực mở rộng phạm vi thông tin và công khai hoá đến các đối tượng chịu sự tác động của chính sách – pháp luật về bất động sản nhằm ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực trong tiếp cận và sử dụng thông tin, góp phần lành mạnh hoá thị trường bất động sản.
3. Đăng ký bất động sản – giải pháp quan trọng nhằm minh bạch hoá thị trường bất động sản của Việt Nam
Hoạt động đăng ký bất động sản có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong việc công khai và minh bạch tình trạng pháp lý của bất động sản, trong đó có vấn đề quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản, giúp cho cá nhân, tổ chức có nguồn thông tin cần thiết để xem xét, quyết định trước khi tiến hành các giao dịch về bất động sản, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên, đồng thời thúc đẩy sự phát triển lành mạnh và bền vững của thị trường bất động sản.
Thông qua đăng ký bất động sản, một mặt Nhà nước công nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng của cá nhân, tổ chức đối với bất động sản, mặt khác, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý đối với loại hình tài sản có giá trị lớn về kinh tế, quy mô và tính chất là bất động sản. Với vai trò và ý nghĩa quan trọng như vậy, việc tổ chức tốt hoạt động đăng ký bất động sản sẽ góp phần phát triển thị trường bất động sản – một trong các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của nước ta đến năm 2010.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc đăng ký bất động sản, trong những năm vừa qua, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về đăng ký bất động sản nhằm tạo lập hành lang pháp lý cho việc thực hiện đăng ký bất động sản. Trên cơ sở đó, hoạt động đăng ký bất động sản cũng từng bước được triển khai rộng rãi trên phạm vi cả nước, góp phần quan trọng vào việc quản lý nhà nước đối với bất động sản và giao dịch về bất động sản, đồng thời đáp ứng nhu cầu của người dân cần được Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản.
Tuy nhiên, một thực tế cần phải được thừa nhận rằng, hệ thống đăng ký bất động sản của nước ta vẫn đang vận hành trong quá trình chuyển đổi tư duy quản lý. Thực tế cho thấy, dấu ấn của tư duy quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung vẫn còn thể hiện khá đậm nét trong nhận thức về vai trò và ý nghĩa thực sự của việc đăng ký bất động sản. Trong cơ chế kinh tế cũ, đăng ký bất động sản được biết đến với tên gọi là đăng ký đất đai[2]. Thời kỳ này, đăng ký đất đai được xem là một trong các nhiệm vụ của quản lý nhà nước về đất đai[3]. Điều này cho thấy rằng, tư duy pháp lý ban đầu của chúng ta về đăng ký bất động sản là phục vụ cho mục tiêu quản lý hành chính nhà nước chứ không phải là công khai hoá thông tin về tình trạng pháp lý của bất động sản. Chính tư duy này đã ảnh hưởng đến tâm lý pháp lý của những người làm công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này về vai trò và ý nghĩa của việc đăng ký bất động sản mà phải mất một thời gian dài mới có thể khắc phục được. Do vậy, một yêu cầu đặt ra là cần phải có sự nhận thức đầy đủ và toàn diện về bản chất của đăng ký bất động sản làm tiền đề cho việc xây dựng cơ chế tác động và hiệu chỉnh phù hợp đối với loại hình đăng ký này.
Vậy, bản chất của đăng ký bất động sản là gì? Và tại sao đăng ký bất động sản lại có vai trò quan trọng trong việc minh bạch hoá thị trường bất động sản?
Cho đến thời điểm hiện tại, pháp luật thực định của nước ta vẫn chưa có định nghĩa chính thức về đăng ký bất động sản. Dưới giác độ nghiên cứu, có thể chia sẻ với quan điểm cho rằng: “đăng ký bất động sản là một biện pháp có tác dụng công bố sự tồn tại của một quyền đối với một bất động sản, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể của quyền thực hiện quyền ấy trong mối quan hệ với tất cả mọi người.”[4]. Như vậy, xét về bản chất, đăng ký bất động sản là việc công khai hoá thông tin về tình trạng pháp lý của bất động sản, phục vụ cho sự vận hành một cách minh bạch và lành mạnh của thị trường bất động sản. Về nội dung, đăng ký bất động sản là việc công bố sự tồn tại của các quyền đối với bất động sản. Theo đó, đăng ký bất động sản được thừa nhận rộng rãi là một dạng đăng ký vật quyền (quyền của các chủ thể đối với bất động sản), chứ không phải là đăng ký đối với vật là bất động sản. Tuỳ theo quan niệm của từng quốc gia, và tuỳ từng thời kỳ lịch sử, mức độ rộng hẹp của các quyền này cũng có sự khác nhau, nhưng cơ bản vẫn là các quyền mà việc công khai thông tin về chúng ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch, như: quyền sở hữu, các quyền có ý nghĩa hạn chế quyền sở hữu như quyền thế chấp, địa dịch… Về hình thức, đăng ký bất động sản là việc Nhà nước ghi nhận các quyền đối với bất động sản của tổ chức, cá nhân bằng sổ đăng ký[5], giấy chứng nhận hoặc các hình thức tương tự khác.
Từ những phân tích trên cho thấy, giá trị tổng quát nhất của việc đăng ký bất động sản, về phía Nhà nước chính là sự kiểm soát thông tin về bất động sản làm cơ sở cho việc quản lý và điều hành thị trường bất động sản. Về phía chủ sở hữu, đăng ký bất động sản là sự khẳng định trước cơ quan nhà nước về tình trạng pháp lý của bất động sản mà mình đang sở hữu hoặc chiếm hữu nhằm tạo ra những bảo đảm về mặt pháp lý cần thiết cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đối với bất động sản đó[6]. Về phía các bên liên quan, đăng ký bất động sản tạo ra sự an toàn về mặt pháp lý khi thiết lập giao dịch bằng bất động sản thông qua việc xác định chính xác chủ thể quyền cũng như tình trạng quyền tồn tại từ trước đối với bất động sản.
Như vậy, hoạt động đăng ký bất động sản đã cho thấy vai trò và ý nghĩa quan trọng của nó trong việc thúc đẩy sự phát triển lành mạnh và bền vững của thị trường bất động sản. Bởi lẽ, là nơi diễn ra các hoạt động kinh doanh bất động sản bao gồm các hoạt động đầu tư tạo lập bất động sản đến các hoạt động giao dịch như mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp… cùng các dịch vụ hỗ trợ như môi giới, định giá, tư vấn, quản lý sử dụng bất động sản, thị trường bất động sản sẽ không thể vận hành một cách bình thường trong điều kiện thông tin về bất động sản thiếu tính minh bạch và chính thống. Vì vậy, để thị trường bất động sản hoạt động hiệu quả, đòi hỏi thông tin về bất động sản phải được cung cấp đầy đủ, kịp thời, khách quan vàđúng pháp luật. Thực tế cho thấy, điều này chỉ có thể được hiện thực hoá trong điều kiện hệ thống đăng ký bất động sảnđược thiết lập. Với ý nghĩa đó, đăng ký bất động sản được xem là giải pháp quan trọng đảm bảo cho nhu cầu công khai và minh bạch hoá thị trường bất động sản.
Trong những năm qua, thị trường bất động sản đã cho thấy những ảnh hưởng rất lớn của nó đối với đời sống kinh tế – xã hội, đặc biệt là từ sau tác động của cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp trên thị trường bất động sản tại Hoa Kỳ. Theo đánh giá chung, thị trường bất động sản của nước ta vẫn còn tồn tại những biểu hiện thiếu minh bạch, bất ổn, tiềm ẩn nhiều rủi ro và có những tác động không thuận lợi đến quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Thực tế này đòi hỏi nhiều hơn sự kịp thời và nhạy bén trong các biện pháp quản lý và điều hành của Nhà nước nhằm tạo lập môi trường minh bạch, an toàn đảm bảo cho sự vận hành hiệu quả, bền vững và lành mạnh của thị trường bất động sản. Để làm được điều này, Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho hệ thống thông tin, dự báo về thị trường bất động sản, trong đó đăng ký bất động sản sẽ phải được chú trọng theo đúng vai trò của nó là một trong những biện pháp quan trọng nhất góp phần minh bạch hóa thị trường bất động sản.
4. Một vài ý kiến về công tác đăng ký bất động sản của nước ta sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản có hiệu lực[7]
Xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong thời gian qua, Nhà nước đã áp dụng nhiều giải pháp hoàn thiện hệ thống đăng ký bất động sản nhằm tạo lập đồng bộ các yếu tố tăng cường tính minh bạch cho thị trường bất động sản, qua đó, góp phần phát huy tối đa mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Trong xu thế đó, ngày 19/6/2009, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản thống nhất cấp một loại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thay cho các loại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp tách biệt đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trước đây; và giao cho cơ quan quản lý tài nguyên và môi trường làm đầu mối tiếp nhận hồ sơ và thực hiện các thủ tục trình Uỷ ban nhân dân cấp giấy chứng nhận mới này[8]. Như vậy, hình thức Nhà nước ghi nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với bất động sản là đất và tài sản gắn liền với đất sau nhiều năm tranh cãi cuối cùng cũng đã được thể hiện thống nhất trong một mẫu Giấy chứng nhận. Sự thay đổi nói trên không chỉ khắc phục được tình trạng tồn tạinhiều loại giấy chứng nhậnquyền sở hữu, quyền sử dụng đối với bất động sản đã và đang gây nhiều khó khăn cho tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện các quyền liên quan đến bất động sản mà còn được kỳ vọng là bước tiến mới trong việc cải thiện tính minh bạch về tình trạng pháp lý của bất động sản. Bởi lẽ, việc ghi nhận thống nhất các thông tin về người sử dụng đất, chủ sở hu bất động sản, hiện trạng thửa đất, tài sản gắn liền với đất, các biến động liên quan đến quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất trong một mẫuGiấy chứng nhận mới này là tiền đề quan trọng trong việc tạo lập cuốn “lý lịch pháp lý” đầy đủ về bất động sản. Với ý nghĩa đó, dữ liệu thông tin về bất động sản là đất và tài sản gắn liền với đất sẽ không còn bị thể hiện một cách “cát cứ”, thiếu thống nhất và đồng bộ như trước đây. Và mức độ minh bạch của các thông tin liên quan đến tình trạng pháp lý của bất động sản cũng vì thế mà được kỳ vọng có sự cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là không còn nhiều việc phải làm sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản có hiệu lực. Bởi lẽ, suy cho cùng, thống nhất mẫu giấy chứng nhận cũng chỉ là sự thay đổi về hình thức ghi nhận của Nhà nước đối với quyền sử dụng, quyền sở hữu bất động sản của tổ chức, cá nhân. Trong khi đó, điều quan trọng là phải thống nhất hoạt động quản lý đăng ký đối với bất động sản.
Hiện nay, theo tinh thần của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản, Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan thực hiện quản lý đăng ký đối với bất động sản là đất và tài sản gắn liền với đất. Tuy nhiên, công tác đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10 tháng 3 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm lại do Bộ Tư pháp quản lý. Sự phân tán trong thực hiện chức năng quản lý nêu trên dẫn đến trong một số trường hợp quản lý đăng ký bất động sản thiếu đồng bộ, thiếu sự phối hợp có hiệu quả và không tách bạch giữa quản lý về hiện trạng với quản lý về tình trạng pháp lý của bất động sản. Thực trạng này phản ánh nhu cầu thống nhất quản lý đối với công tác đăng ký bất động sản của nước ta trong thời gian tới. Có như vậy, việc thống nhất cấp một mẫu Giấy chứng nhận cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mà Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản đưa ra mới thực sự có ý nghĩa.
Thực tế cũng đã cho thấy rằng, để thị trường bất động sản phát triển lành mạnh và bền vững, điều kiện tiên quyết là nguồn hàng hoá – bất động sản phải phong phú và có khả năng lưu thông, chuyển đổi một cách công khai, thuận tiện trên thị trường dưới sự thừa nhận và bảo hộ của pháp luật. Do đó, vấn đề quan trọng đặt ra ở đây là phải tạo lập đượcmột hệ thống hồ sơ pháp lý thống nhất và duy nhất đối với mọi loại bất động sản và do một cơ quan quản lýtrong cơ chế tiếp cận thông tin dễ dàng và minh bạch nhằmđáp ứng yêu cầu hoạt động và phát triển của thị trường bất động sản. Đây chính là sự kỳ vọng của hệ thống đăng ký bất động sản nước ta trong thời kỳ “hậu” Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản.

[1] Xem thêm: Quý Tâm (2005); Công bố chỉ số minh bạch thị trường bất động sản: Việt Nam đứng cuối bảng; http://www.tuoitre.com.vn.
[2] Xem thêm Luật Đất đai 1987
[3] Xem thêm Luật Đất đai 1987
[4] Xem thêm: Đăng ký bất động sản và vấn đề xác lập, công nhận các quyền liên quan đến bất động sản,Ts. Nguyễn Ngọc Điện, Kỷ yếu Hội thảo Pháp luật về đăng ký bất động sản, Hà Nội, năm 2007.
[5] Ở một số quốc gia, thông tin về bất động sản và các quyền liên quan đến bất động sản được ghi nhận trong Sổ Đăng ký bất động sản.
[6] Xem thêm: Đảm bảo sự thống nhất của pháp luật về đăng ký bất động sản, Gs.Ts. Lê Hồng Hạnh, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp bộ: Thống nhất pháp luật về đăng ký bất động sản, Hà Nội, năm 2008.
[7] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 8 năm 2009
[8] Xem thêm khoản 5 Điều 4 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản
Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐĂNG KÝ BẤT ĐỘNG SẢN VÀ XÁC LẬP QUYỀN ĐỐI VỚI BẤT ĐỘNG SẢN

1. Ý nghĩa của việc đăng ký bất động sản: thông tin về quyền hoặc tạo ra quyền
Việc thực hiện một quyền đối với một vật có giá trị tiền tệ chỉ suôn sẻ khi tất cả mọi người đều tôn trọng quyền đó. Muốn được mọi người tôn trọng, điều kiện cần là quyền đó phải được mọi người biết đến. Theo quan niệm truyền thống, đăng ký bất động sản là biện pháp có tác dụng công bố sự tồn tại của một quyền đối với một bất động sản, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể của quyền thực hiện quyền ấy trong mối quan hệ với tất cả mọi người.
Khác với đăng ký hộ tịch, đăng ký tài sản và nói riêng là đăng ký bất động sản, có đối tượng không phải là một sự kiện hay một giao dịch, mà là một quyền đối với một tài sản, đối với một bất động sản (1): quyền sở hữu, quyền của chủ nợ nhận thế chấp, quyền về lối đi qua…
Trong điều kiện bản thân việc đăng ký là một giao dịch do người có quyền xác lập tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, vấn đề đặt ra là, giao dịch ấy có mối quan hệ gì với cuộc sống pháp lý của quyền được đăng ký, cụ thể là đối với việc xác lập, chứng minh sự tồn tại của quyền đó. Các hệ thống pháp luật giải quyết vấn đề theo một trong hai cách: 
Hoặc, luật thừa nhận quyền được xác lập do hiệu lực của các giao dịch (mua bán, trao đổi…) hoặc các sự kiện pháp lý (thừa kế, hết thời hiệu…) hình thành trong khuôn khổ cuộc sống dân sự, việc đăng ký là một giao dịch đặc thù, mang tính chất thủ tục hành chính và chỉ có tác dụng thông tin, công bố công khai cho người thứ ba về sự tồn tại của quyền đã được xác lập đó.
Hoặc, luật xác định rằng chính việc đăng ký có tác dụng trực tiếp xác lập quyền. Trong trường hợp quyền được tạo ra, thì cho đến ngày đăng ký, quyền không tồn tại về mặt pháp lý. Trong trường hợp quyền đang tồn tại, thuộc về một người và nay được chuyển giao cho người khác, thì việc đăng ký có tác dụng xác nhận sự chuyển giao quyền từ người chuyển giao sang người nhận chuyển giao.

Tuỳ theo cách giải quyết vấn đề, các hệ thống pháp luật tổ chức và xác định cách vận hành bộ máy đăng ký cũng như hệ quả pháp lý của sự vận hành đó một cách thích ứng. Điều đó tạo ra sự khác biệt giữa các hệ thống.
2. Các hệ thống đăng ký tiêu biểu
Hệ thống đăng ký để đối kháng với người thứ ba
Hệ thống đăng ký này dựa trên ba nguyên tắc (2): 1. Giao dịch được đăng ký thì coi như được mọi người nhận biết; 2. Giao dịch không đăng ký thì coi như không được ai biết; 3. Các suy đoán này là không thể đảo ngược. Thực ra, việc đăng ký chỉ có ý nghĩa pháp lý đối với người thứ ba; còn đối với hai bên trong giao dịch, việc này không cần thiết và các nguyên tắc vừa nêu cũng không được áp dụng đối với các bên giao dịch: các bên tất nhiên biết rõ mình đã làm gì và phải chịu trách nhiệm về việc mình làm.
Hệ thống này dựa trên sự phân biệt giữa giá trị của giao dịch hoặc tính xác thực của sự kiện được coi là căn cứ xác lập quyền và giá trị của thủ tục đăng ký quyền. Nếu thủ tục đăng ký không được thực hiện, quyền vẫn có thể được xác lập do hiệu lực của giao dịch hoặc của sự kiện ấy trong mối quan hệ giữa những người tham gia giao dịch. Một người bán nhà cho người khác và hợp đồng mua bán không được đăng ký. Quyền sở hữu nhà vẫn được chuyển cho người mua theo đúng hợp đồng; nhưng việc chuyển quyền đó chỉ có hiệu lực trong mối quan hệ giữa bên mua và bán; đối với người thứ ba, nhà vẫn thuộc về người bán (3) .    
Hệ thống đăng ký đối kháng với người thứ ba không thể được sử dụng để trực tiếp chứng minh sự tồn tại của quyền. Đơn giản, việc chuyển giao một quyền được đăng ký, bởi vì việc chuyển giao trước đó cũng đã được đăng ký; người được chuyển giao được thừa nhận có quyền nếu chính người chuyển giao cũng được thừa nhận có quyền. Bởi vậy, trong trường hợp có tranh chấp về sự tồn tại của quyền, người ta phải đi ngược dòng đăng ký cho đến lần đăng ký đầu tiên và phải thẩm định giá trị pháp lý của giao dịch hoặc tính xác thực của sự kiện đặt cơ sở cho việc đăng ký lần đầu đó. Thậm chí, về mặt lý thuyết, việc chứng minh phải được thực hiện bằng cách đi ngược thời gian cho đến khi gặp lại thời điểm mà tài sản được tạo ra hoặc khi tài sản được công nhận thuộc về một người do xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu (4) .  
Không có tác dụng xác lập quyền, nhưng hệ thống đăng ký để đối kháng với người thứ ba có thể giải quyết được sự cạnh tranh giữa hai quyền có cùng tính chất, đối với cùng một tài sản: trong trường hợp có hai người cùng một lúc tự xưng là chủ nợ có bảo đảm bằng quyền đối vật (ví dụ, quyền nhận thế chấp) đối với cùng một tài sản, thì người nào có quyền được đăng ký trước sẽ được ưu tiên thực hiện quyền của mình.   
Hệ thống đăng ký để xác lập quyền
Trong hệ thống này, chính việc đăng ký, chứ không phải giao dịch hay sự kiện pháp lý, có tác dụng tạo ra quyền. Các giao dịch, sự kiện pháp lý chỉ là điều kiện cần cho việc xác lập quyền; đăng ký là điều kiện đủ. Việc đăng ký thiết lập bằng chứng về sự tồn tại của quyền và bằng chứng này không thể bị đánh đổ bằng một án kiện, trừ một số trường hợp cá biệt.
Hệ thống đăng ký để xác lập quyền đòi hỏi cơ chế kiểm tra chặt chẽ cho phép ngăn chặn việc đăng ký quyền cho người không có quyền. Các giao dịch chuyển quyền phải được xác lập theo những điều kiện nghiêm ngặt về hình thức. Trong mọi trường hợp, người được hưởng phải làm đơn xin đăng ký kèm theo các tài liệu chứng minh việc xác lập quyền cho mình. Cơ quan đăng ký từ chối tiến hành đăng ký nếu các điều kiện cần không tồn tại hoặc không có đủ. Điều đó có nghĩa, trong điều kiện không có tranh chấp, cơ quan đăng ký phải thẩm định, đánh giá chất lượng pháp lý của giao dịch hoặc sự kiện có tác dụng xác lập quyền, theo các quy tắc của luật nội dung, trước khi quyết định tiến hành hay không tiến hành đăng ký quyền đó.
Khi được đăng ký, quyền được chính thức thừa nhận thuộc về người có tên trong sổ đăng ký. Người nào cho rằng việc đăng ký là không chính xác và gây thiệt hại cho mình, thì phải chứng minh điều đó trong khuôn khổ vụ khiếu kiện yêu cầu cải chính sổ địa bạ, một loại khiếu kiện rất phức tạp và khó khăn.  
Theo đúng logic của hệ thống, người chịu trách nhiệm chính trong công tác đăng ký phải là thẩm phán và cơ quan đăng ký là toà án (5) .
3. Quy định của pháp luật Việt Nam
Có một thời, Việt Nam áp dụng chế độ đăng ký nhằm xác lập quyền. Đó là thời kỳ của Sắc lệnh điền thổ ngày 21.7.1925 (6). Theo Điều 362 của Sắc lệnh, bằng khoán điền thổ (titre foncier) là bằng chứng duy nhất và tuyệt đối về quyền sở hữu đất và người đứng tên trên bằng khoán là chủ sở hữu được pháp luật thừa nhận một cách không thể đảo ngược. Không loại trừ khả năng cơ quan quản lý điền thổ phạm sai lầm và đăng ký quyền sở hữu đất cho người thực ra không phải là chủ sở hữu. Trong trường hợp này, người bị thiệt hại chỉ có quyền kiện cơ quan đăng ký bất động sản để yêu cầu bồi thường; còn quyền sở hữu đất vẫn thuộc về người có tên trong sổ đăng ký (Điều 364, 412, 413).
Được áp dụng trong thời gian không dài lắm, nhưng các quy định của Sắc lệnh điền thổ có vẻ được người Việt Nam tiếp nhận với thái độ rất tích cực. Bởi vậy, sau khi hệ thống pháp luật thuộc địa bị huỷ bỏ, các tư tưởng chủ đạo của chế độ này vẫn tiếp tục được gìn giữ trong dân cư. Điều đó giải thích sự quan tâm với thái độ tin tưởng của một bộ phận lớn dân cư đối với tác dụng bảo đảm của thủ tục đăng ký nhà đất: việc hoàn tất thủ tục trước bạ sang tên và nhận “giấy hồng”, “sổ đỏ” tạo sự an toàn cho quyền sở hữu trong khung cảnh tiềm ẩn các nguy cơ tranh chấp, xung đột pháp lý. 
Thực ra, sự tin tưởng vào giá trị chứng minh của giấy hồng, sổ đỏ chỉ mang ý nghĩa tâm lý, bởi luật Việt Nam hiện hành chưa có giải pháp chính thức dứt khoát cho vấn đề quan hệ giữa đăng ký bất động sản và xác lập quyền. Nói rõ hơn, luật hiện hành chưa quy định chính thức thừa nhận giá trị chứng minh của việc đăng ký bất động sản đối với các quyền được đăng ký.
Có thể hiểu được sự do dự của người làm luật. Việc thừa nhận giá trị chứng minh chính thức và tuyệt đối hoặc gần như tuyệt đối của các giấy chứng nhận nhà, đất chỉ tỏ ra hợp lý và công bằng, khi hoạt động của cơ quan đăng ký bảo đảm được tính chính xác, khách quan: đăng ký quyền sở hữu cho một người không phải là chủ sở hữu tài sản đồng nghĩa với việc tước quyền sở hữu của chủ sở hữu đích thực.
Nhưng cũnh chính sự do dự đó đã khiến vai trò của hệ thống đăng ký bất động sản hiện hành đối với việc xác lập, công nhận các quyền đối với bất động sản trở nên mập mờ. Điều đó gây không ít khó khăn cho hoạt động áp dụng pháp luật.   
3.1. Quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
Quyền sử dụng đất và các bất động sản gắn liền với đất có vẻ như không có mối liên hệ theo quy tắc “superficies solo cedit” nổi tiếng của Luật La Mã (7). Bởi vậy, về phương diện xác lập quyền, quyền sử dụng đất và quyền sở hữu các bất động sản gắn liền với đất có xu hướng xây dựng các mối quan hệ riêng với hệ thống đăng ký.   
3.1.1. Quan hệ giữa đăng ký quyền sử dụng đất và xác lập quyền sử dụng đất
Khung cảnh pháp lý: Trong logic của cơ chế xác lập ban đầu đối với quyền sử dụng đất được xây dựng trong Luật Đất đai hiện hành, thì vấn đề ý nghĩa của việc đăng ký quyền sử dụng đất đáng lý ra phải được giải quyết gọn nhẹ. Có thể hình dung:
1. Do hiệu lực của việc ngưng áp dụng không điều kiện pháp luật của các chế độ cũ mà khi hệ thống pháp luật mới được thi hành, không ai, trừ nhà nước, có quyền đối với đất. Chính nhà nước là người trao quyền sử dụng đất cho chủ thể nào đó của quan hệ pháp luật, thông qua việc giao đất hoặc cho thuê đất. Các giao dịch giao đất hoặc cho thuê đất, về phần mình, được đăng ký vào sổ địa chính và sau khi thủ tục đăng ký hoàn tất, người được giao đất hoặc người thuê đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
2. Việc chuyển quyền sử dụng đất, dù theo hợp đồng hay bằng con đường thừa kế, đều được đặt dưới sự kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai và cũng phải được đăng ký vào sổ địa chính. Việc đăng ký bao gồm việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên người sử dụng đất trước đó và việc cấp giấy chứng nhận mới cho người nhận chuyển nhượng.     
Trong các điều kiện ấy, hoàn toàn có cơ sở để thiết lập quy tắc theo đó, quyền sử dụng đất được xác lập bằng việc đăng ký vào sổ địa chính. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ là bằng chứng duy nhất và không thể tranh cãi về quyền sử dụng đất của người được cấp giấy.
Tuy nhiên, luật Việt Nam tỏ ra chưa sẵn sàng để tiếp nhận giải pháp này. Như đã biết, chế định quyền sử dụng đất chỉ mới được xây dựng trong luật Việt Nam hiện đại, trong khi phần lớn đất đai có thể khai thác được đã được các chủ thể của quan hệ pháp luật chiếm giữ từ rất lâu. Dưới các nền pháp luật trước đây, các vụ chiếm giữ ấy có thể có hoặc không có căn cứ hợp pháp. Việc áp dụng hệ thống pháp luật đất đai mới làm phát sinh vấn đề hợp thức hoá các trường hợp chiếm giữ này theo những điều kiện do pháp luật mới quy định. Những người chiếm giữ đất mà có đủ các điều kiện, thì sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; nhưng cho đến khi việc hợp thức hoá cho kết quả thuận lợi, người chiếm giữ đất được tiếp tục sử dụng đất.
Ta nói rằng, người sử dụng đất mà chưa được chính thức hoá quyền của mình trong quan hệ với nhà nước là người có quyền sử dụng đất tiềm năng. Người có quyền sử dụng đất tiềm năng được thừa nhận có một số quyền của người sử dụng đất hợp pháp; thậm chí, trong một vài trường hợp (như khi cần thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm nợ vay), còn được đồng hoá với người sử dụng đất hợp pháp. Tư cách người có quyền sử dụng đất tiềm năng chỉ được thừa nhận mặc nhiên trong thời kỳ áp dụng Luật Đất đai năm 1993, được chính thức ghi nhận về mặt pháp lý tại Luật Đất đai năm 2003 (Điều 50).   
   Mặt khác, không loại trừ khả năng việc hợp thức hoá quyền sử dụng đất của người chiếm giữ đất được thực hiện với sự nhầm lẫn và quyền sử dụng đất đã được đăng ký cho người không có đủ điều kiện do pháp luật quy định. Luật hiện hành thừa nhận rằng, người bị thiệt hại do việc thừa nhận sai lầm quyền sử dụng đất cho người khác có quyền kiện ra toà án để yêu cầu bảo vệ các quyền và lợi ích bị xâm hại của mình. Trên thực tế, người bị thiệt hại thường đồng thời là người có quyền sử dụng đất tiềm năng.
Bằng chứng ngoại tư pháp về quyền sử dụng đất: Thực tiễn giao dịch ngoại tư pháp có xu hướng coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như là bằng chứng chính thức và thuyết phục về quyền sử dụng đất. Mỗi khi cần thế chấp quyền sử dụng đất để vay tiền ngân hàng hay chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ người này sang người khác, người xuất trình được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp lệ được thừa nhận là người có quyền sử dụng hợp pháp đối với đất.
Tuy nhiên, người có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là loại người duy nhất được thừa nhận có quyền sử dụng đất. Như đã nói, người sử dụng đất tiềm năng cũng có các quyền của người sử dụng đất hợp pháp. Quyền sử dụng đất tiềm năng, về phần mình, được chứng minh bằng các loại giấy tờ được liệt kê tại Điều 50 Luật Đất đai. Dẫu sao, tình trạng sử dụng đất tiềm năng chỉ có tính chất tạm thời, đến một lúc nào đó, người có quyền sử dụng đất tiềm năng phải trở thành người có quyền sử dụng đất chính thức bằng cách hoàn thành các thủ tục cần thiết để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (8).     
Bằng chứng về quyền sử dụng đất trong trường hợp có tranh chấp: Một khi có tranh chấp, thì phải phân biệt tuỳ theo đã có hay chưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
1. Trường hợp chưa có chứng nhận quyền sử dụng đất, nghĩa là quyền sử dụng đất chưa bao giờ được đăng ký theo hệ thống mới, thì việc giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của uỷ ban nhân dân và Bộ Tài nguyên và môi trường (Luật Đất đai, Điều 136 khoản 2). Hệ thống đăng ký không đóng vai trò gì trong quá trình giải quyết tranh chấp. Thế nhưng, khi tranh chấp ngã ngũ và quyền sử dụng đất được thừa nhận cho một người, thì việc tiếp theo là đăng ký quyền sử dụng đất cho người đó. Thông thường, khi đã qua hai cấp giải quyết tranh chấp, quyền sử dụng đất được thừa nhận một cách dứt khoát cho người có tên trong sổ đăng ký. Trong khung cảnh của Điều 136 Luật Đất đai, có vẻ như người không thoả mãn đối với quyết định giải quyết tranh chấp của cơ quan hành chính có quyền kiện ra toà án. Tuy nhiên, trên thực tế, toà án hầu như không thụ lý án kiện phát sinh trong trường hợp này. Điều đó có nghĩa rằng, việc đăng ký quyền sử dụng đất trong trường hợp này thiết lập bằng chứng chính thức về quyền sử dụng đất cho người có tên trong sổ đăng ký (9).    
2. Trường hợp đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo Khoản 1, Điều 136 Luật Đất đai, trong trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất mà một bên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với phần đất tranh chấp, thì thẩm quyền giải quyết thuộc về toà án. Tất nhiên, khi giải quyết tranh chấp, toà án phải xem lại tính hợp pháp của các căn cứ đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Song, có vẻ như toà án chỉ tiến hành xem xét lại căn cứ của việc cấp chứng nhận quyền sử dụng đất khi bên không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trình được các bằng chứng thuyết phục về quyền của mình. Điều đó có nghĩa, mỗi khi bị kiện thì tạm thời, bên có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được miễn nghĩa vụ chứng minh (10). Nói cách khác, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mặc nhiên có tác dụng suy đoán rằng, người có giấy chứng nhận là người có quyền sử dụng đất và người nào không thừa nhận điều đó thì phải chứng minh.     
Xu hướng: Nói chung, quyền sử dụng đất tiềm năng, với tất cả sự mập mờ mang tính lịch sử của nó, đã làm xáo trộn các dự tính ban đầu của nhà nước liên quan đến việc thiết lập chế độ sở hữu và sử dụng đất đai mới. Sự ẩn, hiện vô chừng của quyền sử dụng đất tiềm năng đã làm ảnh hưởng đến chất lượng của hệ thống đăng ký quyền sử dụng đất và khiến cho người làm luật không đủ dũng cảm để khẳng định, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là bằng chứng duy nhất, tuyệt đối về quyền sử dụng đất.    
Trong quá trình hoàn thiện hệ thống đăng ký quyền sử dụng đất, người làm luật đứng trước hai phương án và phải chọn một.
Hoặc, tận dụng các lợi thế của một quyền mà sự xác lập ban đầu có nguồn gốc từ ý chí của nhà nước để thừa nhận rằng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là bằng chứng tuyệt đối và không thể tranh cãi về quyền này. Muốn được vậy, thì phải loại trừ tận gốc các nguy cơ tranh chấp chứa đựng trong các quyền sử dụng đất tiềm năng bằng cách kiểm tra, thẩm định thật kỹ hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngăn ngừa mọi sai sót trong việc thừa nhận quyền sử dụng đất cho một người có quyền sử dụng đất tiềm năng. Một cách hợp lý, hệ thống đăng ký này phải đặt dưới thẩm quyền của toà án. Nếu để việc đăng ký tại cơ quan hành chính, thì điều đó có nghĩa, cơ quan hành chính sẽ có trách nhiệm đồng thời có quyền thẩm định và ra những kết luận mang tính phán quyết tối hậu về chất lượng pháp lý của các giao dịch hoặc các sự kiện đặt cơ sở cho việc xác lập quyền. Điều đó trái với các nguyên tắc phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước.
Hoặc, chấp nhận tiếp tục “sống chung” với các nguy cơ xung đột pháp lý giữa tư nhân gắn liền với quyền sử dụng đất tiềm năng. Trong trường hợp này, có thể để hệ thống đăng ký tiếp tục thuộc quyền kiểm soát của cơ quan hành chính: cơ quan hành chính cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở kết quả kiểm tra, thẩm định tích cực thu được theo khả năng; nếu có sai sót thì sửa. Tuy nhiên, ít nhất cũng có thể quy định chính thức rằng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thiết lập sự suy đoán về quyền cho người có tên trên giấy đó và người nào bác bỏ điều này thì phải chứng minh trong khuôn khổ một án kiện trước toà án. Một quy định như thế có tác dụng hạn chế những vụ kiện tiến hành tuỳ thích, chỉ nhằm mục đích phá rối cuộc sống của người khác.    
3.1.2. Quan hệ giữa đăng ký nhà và xác lập quyền sở hữu đối với nhà
Tính chất độc lập của việc xác lập quyền sở hữu nhà so với quyền sử dụng đất: Luật Việt Nam hiện hành không thiết lập mối quan hệ vật chính – vật phụ giữa quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà (11). Bởi vậy, việc giải quyết vấn đề bằng chứng pháp lý về quyền sở hữu nhà được thực hiện độc lập với vấn đề bằng chứng về quyền sử dụng đất.
Đăng ký tạo lợi thế trong việc suy đoán về quyền? Cũng như đối với quyền sử dụng đất, không một văn bản nào trong luật viết giải quyết, bằng các quy tắc rành mạch và dứt khoát, vấn đề mối quan hệ giữa xác lập quyền sở hữu nhà và đăng ký quyền sở hữu nhà. Tuy nhiên, so với việc đăng ký quyền sử dụng đất, việc đăng ký quyền sở hữu nhà có sức thuyết phục cao hơn đối với người dân trong việc chứng minh sự tồn tại của quyền. Có lẽ, đó là do khác với quyền sử dụng đất, việc xác lập và lưu thông quyền sở hữu nhà vốn thuộc các nhóm quan hệ tư nhân.            
Pháp luật dân sự thừa nhận, việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; trong trường hợp mua bán tài sản thuộc loại đăng ký quyền sở hữu, thì thời điểm chuyển quyền sở hữu là thời điểm hoàn tất thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Bộ luật Dân sự (BLDS) Điều 439 khoản 2); hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký (Điều 467 khoản 2) (12). Luật Hôn nhân và gia đình, khi giải quyết vấn đề thành phần cấu tạo của khối tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, đòi hỏi “trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng” (Điều 27 khoản 2). Đặc biệt, Khoản 1 Điều 13 Luật Nhà ở khẳng định giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở là cơ sở pháp lý để chủ sở hữu nhà ở thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với nhà ở đó theo quy định của pháp luật.
Từ các quy định trên, có thể nhận thấy xu hướng của người làm luật sử dụng hệ thống đăng ký như một công cụ kiểm soát việc xác lập, chuyển dịch quyền sở hữu nhà ở trong lưu thông dân sự. Tất nhiên, chừng đó quy định chưa đủ để kết luận việc đăng ký có tác dụng chứng minh sự tồn tại tuyệt đối của quyền (13); song ít nhất, nếu người ta không tranh chấp về quyền với người chuyển nhượng, thì người nhận chuyển nhượng đã đăng ký được suy đoán là người có quyền. Hơn nữa, nếu có tranh chấp về quyền của người nhận chuyển nhượng, thì vấn đề mấu chốt sẽ là tính hợp pháp, hợp lệ của việc đăng ký cho người nhận chuyển nhượng. Trong trường hợp các bằng chứng chống lại người có giấy chứng nhận tỏ ra có sức thuyết phục, thì trong logic của sự việc, bên cạnh việc chứng minh của người có giấy chứng nhận, cơ quan đăng ký phải giải trình trước toà án về cơ sở pháp lý của việc đăng ký: người bị kiện không đơn độc trong vụ kiện. 
Mặt khác, khi xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở do hiệu lực của các giao dịch hoặc do thừa kế, luật lại dựa vào chính các giao dịch, sự kiện dẫn đến việc chuyển quyền đó, chứ không dựa vào hệ thống đăng ký (khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở). Với các quy định ấy, thì việc đăng ký có vẻ chỉ còn mang ý nghĩa đối kháng với người thứ ba như trong luật của Pháp, chứ không thực sự có liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu nhà ở, đặc biệt là trong các trường hợp xác lập do hiệu lực của giao dịch hoặc do thừa kế. Tuy nhiên, với quy định của khoản 1 Điều 13 Luật Nhà ở, có thể tin rằng, việc chuyển quyền sở hữu theo khoản 5 Điều 93 chỉ hàm nghĩa chuyển giao tư cách, danh nghĩa chủ sở hữu (14). Chính việc đăng ký mới giúp cho quyền sở hữu bao hàm các quyền năng thực tại của chủ sở hữu trong quan hệ với tất cả mọi người. Cũng cần nhắc lại rằng, tất cả những điều được rút ra đó, trong khung cảnh của luật thực định, được thừa nhận với điều kiện quyền sở hữu thực sự tồn tại.          
Nói chung, việc xây dựng mối quan hệ giữa đăng ký và xác lập, công nhận quyền sở hữu nhà, ngay cả trong trường hợp chất lượng của hệ thống đăng ký đạt đến mức hoàn hảo nhất, cũng chỉ nên dừng lại ở mc độ dùng việc đăng ký để suy đoán về quyền. Khác với đất, nhà có thể thay đổi cấu trúc vật chất; nếu thừa nhận giá trị tuyệt đối của giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, thì mọi thay đổi cấu trúc vật chất của nhà đều trở nên bất hợp pháp do không phù hợp với giấy chứng nhận đang lưu hành ở thời điểm việc thay đổi cấu trúc diễn ra. 
3.2. Quan hệ giữa đăng ký quyền và xác lập các quyền đối vật khác
Có hay không các quyền đối vật khác? Có vẻ như khái niệm quyền đối vật, quyền đối nhân không phải là một phần của học thuyết pháp lý chính thống ở Việt Nam. BLDS có khái niệm quyền tài sản, nhưng khái niệm ấy được dùng để đối trọng với khái niệm tài sản hữu hình (15) . Đôi lúc, luật ghi nhận quyền nào đó mà, trong luật của các nước, mang tính chất đối vật (được thực hiện trực tiếp trên một vật mà không cần sự hỗ trợ của người khác), nhưng rồi lại xây dựng quyền theo khuôn mẫu quan hệ nghĩa vụ giữa hai con người. Ví dụ điển hình là quyền về lối đi qua trong luật dân sự (16) .
Quyền đối với di sản thờ cúng là một quyền đặc biệt được thực hiện trực tiếp trên một loại tài sản đặc biệt, cũng mang đầy đủ tính chất quyền đối vật, nhưng cũng bị đối xử như loại quan hệ nghĩa vụ trong khung cảnh của luật thực định. Thậm chí, có những quyền đáng lý phải được xác lập theo logic của khoa học luật, nhưng do cách giải quyết vấn đề của người làm luật không đi theo logic mà cuối cùng quyền đã không thể ra đời; thay vào đó là một tập hợp rối rắm các quan hệ pháp lý. Ví dụ như quyền của chủ nợ nhận thế chấp đối với bất động sản (17) .
Trong luật của các nước, người thế chấp (nói chung, người xác lập biện pháp bảo đảm đối vật) không phải là người có trách nhiệm trả nợ do tư cách người thế chấp của mình. Nói rõ hơn, người thế chấp xác lập giao dịch thế chấp tài sản; do hiệu lực của giao dịch thế chấp mà tài sản ở trong tình trạng được thế chấp và chính tình trạng này, chứ không phải con người, là sự bảo đảm đối với việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tình trạng này gắn với tài sản chứ không phải với con người. Và cũng vì tình trạng bảo đảm gắn với tài sản chứ không phải với con người, mà biện pháp bảo đảm có tác dụng xác lập một quyền đối vật của chủ nợ đối với tài sản. Quyền đối vật ấy cho phép chủ nợ được quyền ưu tiên bán tài sản để thu tiền trừ nợ, bất kể tài sản đang thuộc về ai. Cũng vì việc thay đổi tư cách chủ sở hữu không làm ảnh hưởng đến quyền của chủ nợ nhận thế chấp, mà tài sản đang thế chấp vẫn được chuyển nhượng tự do.
Người soạn thảo các quy định về thế chấp không suy nghĩ theo logic đó. Cuối cùng, việc thế chấp trong luật Việt Nam hiện hành có tác dụng xác lập quan hệ giữa người thế chấp và người nhận thế chấp tương tự như quan hệ giữa người bị hạn chế năng lực hành vi và người đại diện của mình.   
Đăng ký gì và có ý nghĩa gì? Ngoài quyền sở hữu đối với một số tài sản và quyền sử dụng đất, hệ thống đăng ký hiện hành chỉ được tổ chức đối với giao dịch bảo đảm. Đăng ký giao dịch bảo đảm, đối tượng đăng ký có vẻ là giao dịch chứ không phải là quyền phát sinh từ giao dịch đó. Bản thân các quyền này, như đã biết, cũng rất mập mờ.
Về tác dụng, việc đăng ký có giá trị pháp lý đối với người thứ ba (khoản 3 Điều 323 BLDS). Thế nhưng, nội hàm của cụm từ “có giá trị đối với người thứ ba” lại không được làm rõ. Đáng lý ra, nếu coi việc đăng ký như một biện pháp thông tin, thì phải áp dụng nguyên tắc thứ nhất của hệ thống đăng ký để đối kháng theo đó “giao dịch được đăng ký coi như được mọi người nhận biết”. Việc đăng ký tự nó mang ý nghĩa công bố và tất cả những ai xác lập giao dịch có liên quan đến tài sản đều buộc phải biết sự hiện hữu của các quyền được đăng ký. Người nhận thế chấp sau có nghĩa vụ phải tự mình tìm hiểu về sự hiện hữu của các thế chấp trước đó đã được đăng ký, cũng như của các quyền đối vật khác; chủ sở hữu tài sản không có nghĩa vụ phải “báo cáo” về việc này. 
Cần lưu ý rằng, trong điều kiện có hệ thống đăng ký, thì khi tài sản thế chấp được chuyển nhượng, người chuyển nhượng cũng không có nghĩa vụ thông báo cho người nhận chuyển nhượng về tình trạng pháp lý của tài sản, hay đúng hơn, người chuyển nhượng đã thông báo đầy đủ thông qua hệ thống đăng ký. Chính người nhận chuyển nhượng phải tham khảo các thông tin tại cơ quan đăng ký bất động sản để biết rõ tình trạng pháp lý của tài sản và, trên cơ sở đó, quyết định chấp nhận hay không chấp nhận xác lập giao dịch chuyển nhượng. 
Nói riêng trường hợp chuyển nhượng một tài sản được thế chấp. Người nhận chuyển nhượng tài sản thế chấp không phải là người thế chấp mới, thậm chí không phải là người thế chấp thay thế. Đơn giản, người này nhận một tài sản ở trong tình trạng được dùng để bảo đảm một nghĩa vụ nào đó và do vậy, phải tôn trọng quyền của chủ nợ được bảo đảm bằng giá trị của tài sản đó.
Người nhận chuyển nhượng càng không phải là người bảo đảm thực hiện nghĩa vụ: nếu đã bán tài sản được thế chấp mà vẫn chưa thu đủ số nợ phải trả, thì chủ nợ phải tìm những người có trách nhiệm trả nợ mà đòi tiếp chứ không được đòi nợ ở người nhận chuyển nhượng.
Luật hiện hành đi theo con đường hoàn toàn khác. Người thế chấp có nghĩa vụ thông báo cho người nhận thế chấp sau về sự tồn tại của vụ thế chấp trước; tài sản thế chấp chỉ có thể được chuyển nhượng với sự đồng ý của người nhận thế chấp. Sau khi tài sản thế chấp được chuyển nhượng, thì số phận của giao dịch thế chấp cũng bị thả nổi: có thể do hiệu lực của việc chuyển nhượng mà biện pháp thế chấp bị huỷ; nhưng cũng có thể tài sản tiếp tục được thế chấp và người nhận chuyển nhượng phải chấp nhận tình trạng đó như là một trong những điều kiện của việc chuyển nhượng. Với tất cả những điều trên, việc đăng ký chỉ còn là một thủ tục quan liêu, chứ không có ý nghĩa gì, bởi việc thông tin, công bố đã được thực hiện theo các kênh giao tiếp thủ công cổ xưa mà con người đã quen.     
——————   
1. Hệ thống đăng ký quyền đối với tài sản là phát minh của người Hy Lạp và loại quyền đầu tiên được đăng ký không phải là quyền sở hữu mà là quyền của chủ nợ nhận thế chấp: Droit civil – Les biens. La publicité foncière, Cujas, Paris, 1998, số 650.
2. P. Malaurie và L.Aynès, sđd, số 1201. 
3. Tuy nhiên, luật của Pháp, áp dụng hệ thống đăng ký này, nói rằng nếu người thứ ba biết hoặc buộc phải biết giao dịch đã được xác lập, thì việc chuyển quyền sở hữu cũng có hiệu lực đối với họ, dù hợp đồng mua bán không được đăng ký. Xem P. Malaurie và L. Aynès, sđd, số 1221.
4. Trên thực tế, không có trường hợp nào mà việc dựng lại lịch sử của một bất động sản được thực hiện hoàn hảo. Đến lúc nào đó, người ta không còn biết đi đâu, làm gì, để chứng minh, do mọi chuyện đều chìm trong bóng tối của sự quên lãng. Bởi vậy, người ta nói rằng, bằng chứng tuyệt đối về quyền sở hữu trong hệ thống đăng ký để đối kháng là bằng chứng quái quỷ (probatio diabolica).     
5. Như ở Đức. Xem M. Fromont và A. Rieg, Introduction au droit allemand, T. III, Cujas, Paris, 1991, tr. 165 và kế tiếp. ở úc, hệ thống đăng ký Torrens, có tác dụng xác lập quyền, là một phần của bộ máy hành chính công, chứ không thuộc Toà án. Thế nhưng, đó là vì tất cả các đăng ký ban đầu đều có nguồn gốc từ việc nhà nước tiến hành phân phối hành chính đất đai vô chủ (nghĩa là thuộc sở hữu nhà nước) cho tư nhân để khai thác.
6. Sắc lệnh này được áp dụng trước hết tại các tỉnh thuộc Nam Kỳ và từ năm 1937 tại Hà Nội và Hải Phòng. Một sắc lệnh có cùng nội dung được ban hành ngày 29.3.1939, áp dụng trên toàn lãnh thổ Bắc Kỳ từ năm 1940.  
7. Theo nguyên tắc superficies solo cedit, nếu không có thoả thuận khác, thì các tài sản gắn liền với đất mặc nhiên thuộc sở hữu của người có quyền sở hữu đất. Luật của Pháp, Đức chấp nhận nguyên tắc này, trong khi luật của ý, Nhật thì không. Xem, cùng tác giả, Rapport général sur la propriété des sols, trong công trình nhiều tác giả của Hội Henri Capitant, La Propriété, L.G.D.J, Paris, 2006.             
8. Theo Nghị định số 181-2004-NĐ-CP ngày 29/10/2004 Điều 184, từ ngày 01/01/2007, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là loại giấy tờ duy nhất cho phép người sử dụng đất thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến đất do mình sử dụng. Về mặt lý thuyết, sau ngày đó, quyền sử dụng đất tiềm năng chỉ còn được thừa nhận trong khuôn khổ thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất, chứ không thể được viện dẫn nữa trong giao lưu dân sự.  
9. Thế nhưng, điều đó không có nghĩa rằng, những lần đăng ký sau này cũng được coi là bằng chứng chính thức về quyền sử dụng đất của những người nhận chuyển giao quyền sử dụng đất: việc xác lập quyền sử dụng đất cho những người nhận chuyển nhượng sau này tuỳ thuộc vào chất lượng pháp lý của từng căn cứ xác lập.    
10. Đây là chỉ kết quả của các phân tích lý thuyết. Người Việt Nam có vẻ chưa quen với luật chơi truyền thống trong tranh tụng, được xây dựng dựa theo lẽ phải. Bởi vậy, khi là đương sự trong một vụ tranh chấp, người ta thường được yêu cầu chứng minh cùng một lúc và đan xen với việc chứng minh của bên kia.   
11. Theo BLDS Điều 236 khoản 3, khi một người sáp nhập tài sản là động sản của người khác vào tài sản là bất động sản của mình, mặc dù đã biết hoặc phải biết tài sản đó không phải là của mình và cũng không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập, thì chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập có quyền yêu cầu người sáp nhập tài sản thanh toán giá trị tài sản của mình và bồi thường thiệt hại. Thế nhưng, có vẻ như trong trường hợp đặc thù này, việc thừa nhận quyền sở hữu đối với tài sản sáp nhập vào bất động sản cho người chủ sở hữu bất động sản không dựa vào logic của quan hệ vật chính – vật phụ mà chỉ dựa vào sự tiện lợi của giải pháp. 
Người soạn thảo luật dường như quên mất, không dự kiến tình huống một người dùng vật liệu của mình để xây nhà trên đất thuộc quyền sử dụng của người khác. Nếu tình huống này được dự kiến, và nếu khi đó, người làm luật nói rằng người chủ đất có quyền giữ lại căn nhà đó cho mình, thì có thể nói, đối với người làm luật, quyền sử dụng đất là vật chính.  
12. Thực ra, không phải lúc nào luật Việt Nam cũng dựa vào việc đăng ký để xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu một tài sản thuộc loại phải đăng ký. Theo BLDS Điều 636, thì kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Điều này có nghĩa rằng, quyền sở hữu đối với tài sản của người có di sản được chuyển ngay lập tức cho người thừa kế ở thời điểm mở thừa kế, bất kể tài sản có hay không có đăng ký quyền sở hữu.   
13. Theo Điều 15 Luật Nhà ở, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở được cấp trên cơ sở xem xét một hồ sơ có các tài liệu chứng minh quyền sở hữu đối với nhà của người xin cấp giấy chứng nhận. Luật không quy định trách nhiệm của cơ quan chức năng thẩm định giá trị chứng minh của các tài liệu. Vả lại, người nào không thừa nhận quyền sở hữu của người có giấy chứng nhận vẫn có quyền kiện ra toà án để tranh chấp về quyền đó. Bởi vậy, có thể nói, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở là cơ sở của việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu với điều kiện các quyền và nghĩa vụ ấy tồn tại.  
Dẫu sao, Luật Nhà ở cũng quy định khá mạnh về mối quan hệ giữa đăng ký và quyền, Luật Đất đai không có quy định tương tự đối với quyền sử dụng đất.   
14. Thực ra, việc công chứng có tác dụng làm xác thực giao kết giữa các bên, chứ không đánh dấu thời điểm giao kết. Nói rõ hơn, giao dịch được công chứng sẽ có tính xác thực vào ngày nó được xác lập chứ không phải vào ngày được công chứng. Trong logic quan hệ đó giữa công chứng và giao dịch, đáng lý phải thừa nhận rằng việc chuyển quyền sở hữu được thực hiện vào ngày xác lập giao dịch, không phải vào ngày công chứng. 
15. Xem: cùng tác giả, Cần xây dựng lại khái niệm về quyền tài sản trong luật dân sự, Tạp chí NCLP, số tháng 3/2005. 
16. Trong khung cảnh của luật thực định, người ta có vẻ không hình dung được quyền về lối đi qua là một quyền đối vật và là quyền do một người thực hiện trực tiếp trên bất động sản của người khác. Bởi vậy mới có chuyện một chủ bất động sản ở Hà Nội không cho phép chủ bất động sản bị vây bọc mở lối đi qua trên bất động sản của mình, với lý do mình không có nghĩa vụ gì đối với việc bảo đảm cho người khác khai thác, sử dụng bất động sản của họ. Chính các cơ quan nhà nước, khi trả lời phỏng vấn của báo chí, cũng tỏ ra không hiểu tranh chấp này là gì và ai là người có thẩm quyền giải quyết. 
17. Luật bảo đảm nghĩa vụ hiện hành luôn nhầm lẫn người bảo đảm nghĩa vụ với người có nghĩa vụ. Thực ra, trong trường hợp bảo đảm đối vật, khái niệm người bảo đảm không tồn tại: chính tài sản được chỉ định là vật bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ, còn giữa chủ sở hữu tài sản được chỉ định đó và chủ nợ có bảo đảm không có quan hệ bảo đảm. Bởi vậy, nếu người thế chấp đồng thời là người có nghĩa vụ được bảo đảm, thì trong trường hợp tài sản bảo đảm không đủ để thực hiện nghĩa vụ, người này phải thực hiện phần còn lại với tư cách người có nghĩa vụ, chứ không phải với tư cách người bảo đảm nghĩa vụ; nếu người thế chấp không đồng thời là người có nghĩa vụ, thì trong trường hợp tài sản thế chấp không đủ để thực hiện nghĩa vụ, người có nghĩa vụ phải thực hiện phần còn lại, người thế chấp không phải bận tâm đến việc đó. 

Nguồn: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP