Hiển thị các bài đăng có nhãn thờ cúng tổ tiên. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thờ cúng tổ tiên. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 17 tháng 11, 2011

THỜ CÚNG TỔ TIÊN GÓP PHẦN TĂNG CƯỜNG ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI

Người Việt Nam dù đi đâu, ở đâu, mỗi khi tết đến, xuân về lại nhớ về quê hương xứ sở, hoài vọng về những ký ức tuổi ấu thơ, nơi đấy đã từng nuôi duỡng tình cảm gia đình, họ tộc, xóm làng và Tổ quốc. Mỗi người con đất Việt lại muốn qua làn khói hương để thể hiện tấm lòng tri ân đối với những bậc tiền nhân đã có công với cộng đồng huyết thống và xã hội. Thờ cúng tổ tiên theo nghĩa rộng, xét về giác độ nào đó thực sự là mẫu số chung về nhu cầu tâm linh, để từ đó tăng cường sự đồng thuận của mọi người dân Việt Nam.
Đồng thuận xã hội là một khái niệm được dùng khá phổ biến trong những năm gần đây, nhất là từ khi được Đảng ta đề cập chính thức trong Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa IX). Thực ra đồng thuận là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử nhân loại, khi có cộng đồng người chung sống, do nhu cầu cần có sự hài hòa, hợp tác trong sản xuất và cuộc sống. Đồng thuận làm cho mối quan hệ con người với con người luôn ở trạng thái hài hòa, trở thành nền tảng duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Đồng thuận có nghĩa là đồng lòng, đồng ý về một giá trị chung nào đó trong cộng đồng mà nội dung chủ yếu là đồng thuận về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, đồng thuận không có nghĩa là san bằng sự khác biệt, xóa hết mọi mâu thuẫn, không còn đấu tranh khi nó vẫn là động lực của sự phát triển. Đấu tranh và hợp tác là hai mặt của quá trình tương tác giữa các cá thể trong một cộng đồng, tạo ra sự phát triển của xã hội, ranh giới hợp lý giữa hợp tác và đấu tranh chính là mục tiêu của sự phát triển. Nên hiểu, đồng thuận là giới hạn hợp lý của đấu tranh và hợp tác; mà đồng thuận xã hội là biểu hiện của sự đồng thuận ở mức độ cao nhất, rộng lớn nhất, bao trùm nhất mà nội dung của nó là tạo ra sự thống nhất về chính trị, kinh tế và văn hóa của xã hội.
Cơ sở của đồng thuận chính trị là xã hội dân chủ và cơ sở của đồng thuận kinh tế là tự do về kinh tế, bảo đảm lợi ích chung, công bằng trong hoạt động kinh tế. Nội dung rất quan trọng của đồng thuận xã hội là đồng thuận về văn hóa. Nếu không có sự đồng thuận về văn hóa thì đồng thuận chính trị hay đồng thuận kinh tế sẽ chỉ là đồng thuận mang tính nhất thời, thiếu bền vững. Văn hóa, trong đó có văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo luôn có khả năng hướng con người đến giá trị chung, luôn tạo dựng được sự đồng thuận xã hội cao. Đồng thuận về văn hóa chủ yếu là sự đồng thuận về nhu cầu tinh thần của con người.
Ở nước ta, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, giá trị đạo đức truyền thống, có sức tạo nên sự đồng thuận xã hội, quy tụ sức mạnh cộng đồng rất lớn lao.
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng và nhiều dân tộc. Bên cạnh các tôn giáo lớn như: Phật giáo, Công giáo, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo... còn dung dưỡng cả một hệ thống tín ngưỡng dân gian rất phong phú, đa dạng như: thờ mẫu, thờ thành hoàng, thờ anh hùng dân tộc, tín ngưỡng phồn thực... Đó là chưa kể những loại hình tín ngưỡng có trong đồng bào các dân tộc thiểu số, nhưng tiêu biểu nhất vẫn là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tín ngưỡng này, tồn tại ở nhiều cộng đồng các thành phần dân tộc, đan xen và thẩm thấu vào các hoạt động tôn giáo, trải dài nhiều thời kỳ lịch sử dân tộc. Do vậy, thờ cúng tổ tiên là hiện tượng xã hội có tính phổ biến.
Thờ cúng tổ tiên đã có từ lâu trong cộng đồng người Việt, nhưng khi Nho giáo du nhập vào nước ta, với tư tưởng đề cao gia đình, gia tộc, xem chữ hiếu là nền tảng của đạo lý và coi nam giới là cột trụ trong gia đình, thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được nâng lên một tầm cao mới.
Thờ cúng tổ tiên được hiểu, vừa như một phong tục truyền thống, vừa như một đạo lý làm người, trở thành một hình thức sinh hoạt tâm linh thiết yếu của cộng đồng gia đình, làng xã và đất nước.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng: “Từ xa xưa dân tộc Việt Nam ta không có tôn giáo theo nghĩa thông thường của nhiều nước khác. Còn nói tôn giáo là thờ cúng thì mọi người đều thờ cúng ông bà, mọi họ đều thờ cúng tổ tiên... Từ góc độ văn hoá, đây là một đặc trưng đáng trọng của người Việt Nam, ở chỗ nó là sự tưởng nhớ những người có công trong việc tạo lập cuộc sống ngày nay trong mỗi gia đình và làng xóm”1.
Một thời kỳ không ngắn, không ít người có quan niệm chưa thật đúng về loại hình tín ngưỡng này. Gần đây, nhất là sau khi Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định và ghi nhận: “Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân, thì sự nhìn nhận về loại hình tín ngưỡng này mới có sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Hiện nay, ở Việt Nam, hầu nh­ư 100% dân cư­ giữ phong tục thờ cúng tổ tiên”2.
 Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên góp phần tạo sự đồng thuận xã hội. Điều này thể hiện ở những điểm sau:
Một là, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tạo sự đồng thuận trong gia đình, họ tộc.
Chim có tổ, người có tông; cỏ cây có gốc rễ; sông suối có ngọn nguồn, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nhắc nhở con người hướng về gốc rễ, cội nguồn, đã khơi dậy đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, từ đó tạo điều kiện cho sự gắn bó trong quan hệ huyết thống giữa các thành viên trong gia đình, họ tộc. Mỗi gia đình dù sang hèn, giàu nghèo khác nhau; dù sinh sống ở quê hương hay xa xứ cũng đều có nhu cầu hướng về tổ tiên để tỏ lòng tri ân những người có công sinh thành và nuôi dưỡng con cháu.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, chữ hiếu không chỉ dừng lại ở ý thức, giáo dục đạo đức mà dần dần đã trở thành những nghi thức, tập tục... thường xuyên nhắc nhở con cháu có trách nhiệm với quá khứ, hiện tại và tương lai; giữ quan hệ tốt đẹp với anh em, gia tộc, làng xã và toàn xã hội.
Loại hình tín ngưỡng này ở nước ta, tuy giản dị nhưng sâu đậm. Việc thờ cúng tổ tiên chủ yếu diễn ra vào những ngày mất của bố mẹ, ông bà, tổ tiên mà người ta thường gọi là ngày kỵ hoặc ngày giỗ. Ngoài ra, khi có chuyện vui, việc buồn gia đình cũng thường có nén hương, nải quả để kính báo với gia tiên. Thờ cúng tổ tiên còn được tổ chức vào những ngày có các sự kiện quan trọng trong gia đình như: lấy vợ, làm nhà, tậu trâu, mua ruộng, xa quê, thi cử...
Tín ngưỡng này không nói gì về thiên đường hay địa ngục, cũng chẳng đề ra ân sủng siêu việt hoặc trừng phạt ghê gớm, không có hệ thống triết thuyết, giáo luật khắt khe cũng như tổ chức giáo hội chặt chẽ, mà chỉ là thứ tín ngưỡng dân gian, đơn giản, nhẹ nhàng nhưng lại rất sâu lắng trong lòng nhân dân. Trước ông bà tổ tiên, mọi người cùng chung đối tượng, niềm tin, thời gian, địa điểm, hành vi thờ cúng; trước không gian thiêng liêng với khói hương nghi ngút, con người dễ bao dung, độ lượng, rộng lòng tha thứ để tìm sự đồng thuận mà cuộc sống đời thường khó tránh được có ít nhiều những mâu thuẫn nảy sinh.
Hai là, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tạo sự đồng thuận trong cộng đồng làng xã.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có hai lớp chủ yếu là trong gia đình và ngoài dòng họ nhằm củng cố và thắt chặt quan hệ huyết thống của gia đình hạt nhân và gia đình mở rộng. Tuy vậy, thờ cúng tổ tiên còn được hiểu ở mức độ rộng hơn, đó là thờ những người có công với làng xã, quê hương, được cộng đồng dân cư tôn vinh là thành hoàng.
Thành hoàng của người Việt rất phong phú và đa dạng. Hầu hết các vị được tôn vinh thành hoàng là những người có công đánh giặc giữ nước hoặc cứu thế hộ dân, có vị khai làng lập ấp, có người tạo nghề nghiệp mới, hoặc chính là tổ của một dòng họ. Có làng chỉ phụng thờ một vị thành hoàng, nhưng cũng có thôn xóm thờ đến hai, ba thậm chí thờ cả bảy, tám vị là thành hoàng.
Không kể thân thế, sự nghiệp ra sao (giàu sang hay nghèo hèn, quan lại hay thứ dân) nếu được làng xã tôn vinh là thành hoàng đều được cả dân làng sùng kính. Trung tâm thờ cúng thành hoàng hay thần làng là ngôi đình. Đó là nơi tụ tập dân làng để giải quyết cả việc đời lẫn việc đạo, từ việc vui chơi giải trí đến bàn luận lo toan việc làng, nước.
Tín ngưỡng thờ thành hoàng có sức quy tụ, lôi cuốn đối với cư dân làng xã, không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh mà còn tạo sự đồng thuận trong đời sống thế tục.
Ba là, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tạo sự đồng thuận trong cộng đồng dân tộc - quốc gia.
Đặc điểm của xã hội phương Đông là việc suy tôn một vị đại diện tối cao của cả cộng đồng, ông vua - thần là hóa thân của thần - con trời được đầu thai xuống cõi trần để cai trị thiên hạ. Vị vua thần ấy được tôn vinh là Thiên tử - con Trời. Thiên tử có trách nhiệm thay trời trị vì đất nước, lo liệu cho muôn dân không chỉ có quyền uy trần thế mà còn có sức mạnh siêu nhiên để điều khiển cả thế giới trong đó có thánh thần, ma quỷ, những người đã khuất thuộc phạm vi lãnh thổ mình cai quản. Việc vua phong cấp: đệ nhất, đệ nhị, đệ tam đẳng thần cho các vị có công với dân với nước khi chết, cũng như cho các thần sông, thần núi, các vong hồn là một ví dụ đặc biệt về vai trò của Thiên tử - ông vua nửa người nửa thần ở phương Đông. Ở Việt Nam có ba cộng đồng vốn từ xa xưa đã có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, đó là: gia đình, làng xã và quốc gia. Trong tâm thức sâu thẳm của người Việt, khó mà tách biệt cô lập giữa gia đình, làng xã và đất nước, “nước mất thì nhà tan”, “trả thù nhà” gắn liền với “đền nợ nước”. Cụ Phan Bội Châu trong Quốc sử khảo có viết: “Nước là cái nhà to, nhà là cái nước nhỏ”. Vì vậy, tổ tiên gia đình, làng xã và đất nước không tách rời nhau. Trong gia đình có ông bà, tổ tiên, làng xã có thành hoàng, phạm vi quốc gia có vua Hùng.
Tục thờ vua Hùng với lễ hội đền Hùng được tổ chức hàng năm đã hướng mọi người Việt Nam về với cội nguồn dân tộc, hun đúc hồn thiêng sông núi, củng cố ý thức cộng đồng nhằm hướng tới mục đích, như Hồ Chủ tịch đã nói: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Bốn là, thờ cúng tổ tiên góp phần tăng cường sự đồng thuận giữa các tôn giáo.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, đang diễn ra cuộc “xung đột văn hoá”, “xâm lăng văn hóa” hay sự “đối đầu giữa các nền văn minh” là một thách thức trong những thách thức lớn của thời đại. Sự phục hồi và phát triển của thờ cúng tổ tiên ở nước ta những năm gần đây, rất có thể là điểm tựa để chống lại sự xâm lăng văn hóa từ bên ngoài đang có nguy cơ làm xói mòn bản sắc văn hoá dân tộc. Các tôn giáo ở Việt Nam từ Phật giáo, Đạo giáo và đặc biệt là Khổng giáo rất coi trọng thờ cúng tổ tiên, cho đến sau này có sự xuất hiện đạo Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo, Tịnh độ cư sĩ Phật hội... cũng coi thờ cúng tổ tiên như một bộ phận không tách rời trong giáo lý, lễ nghi và hoạt động của các tôn giáo này. Riêng trường hợp Công giáo thì việc thờ cúng tổ tiên của tín đồ gặp không ít khó khăn và gập ghềnh trên bước đường hội nhập với văn hóa dân tộc.
 Một thời gian khá dài, Giáo hội Công giáo cấm tín đồ của mình thờ cúng tổ tiên. Tuy nhiên, trong tâm khảm sâu thẳm của người công giáo Việt Nam dễ gì đã quên được công ơn sinh thành, dưỡng dục của ông bà, cha mẹ và vì vậy dưới nhiều hình thức tín đồ Công giáo vẫn duy trì ở mức độ khác nhau về “đạo hiếu”. Việc chấp nhận hay phủ nhận tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người công giáo Việt Nam cũng là cuộc đấu tranh kéo dài trong nội bộ giáo hội Công giáo, đôi khi khá gay gắt.
Cho dù có những ý kiến khác nhau, người thì chấp nhận, kẻ lại phản đối thờ cúng tổ tiên trong hàng ngũ chức sắc Công giáo, nhưng Giáo hội Công giáo chính thức nghiêm cấm tín đồ Công giáo thờ cúng tổ tiên qua nhiều thế kỷ. Chỉ đến ngày 14-6-1965 ở Việt Nam - sau Công đồng Vatican II - các Giám mục mới chính thức cho phép người công giáo giữ và tham gia nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Trong Huấn thị 14-6-1965 có nêu: “Để tỏ lòng ái quốc, hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm các bậc anh hùng, liệt sĩ (như treo ảnh, dựng hình, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức giỗ kỵ...) thì được thi hành và tham gia chủ động”3, người công giáo Việt Nam mới chính thức được cung kính tổ tiên. Người tín đồ Công giáo khẳng định: “Trên thực đơn sống đạo của Công giáo chúng ta không thể thiếu nghĩa vụ đối với gia tiên và quốc tiên”4. Gần đây, Giáo hoàng Gioan-Phaolô II cũng đã thừa nhận: “Cái phải của đạo Thờ cúng tổ tiên”5.
Sự thừa nhận của Giáo hội Công giáo đối với tín ngưỡng này trong tín đồ Công giáo ở Việt Nam, tuy muộn màng, nhưng đã tạo cho giáo dân, giáo sĩ theo đạo Công giáo đồng hành và tạo sự đồng thuận với văn hóa dân tộc. Hiện nay, người công giáo đã được tự do thỏa mãn nhu cầu về cung kính tổ tiên nhằm tri ân những người có công sinh thành và nuôi dưỡng mình.
Người Việt Nam, hằng ngày, nhất là mỗi dịp năm mới xuân về, dù theo tôn giáo gì, tín ngưỡng nào thì vẫn luôn hướng về tổ tiên với tấm lòng thành. Đây là sự đồng thuận về nhu cầu tâm linh của người Việt, là một đặc trưng, một yếu tố rất đặc biệt góp phần không nhỏ cho sự đồng thuận tạo đà cho sự phát triển đi lên của đất nước.
_______________
1. Phạm Văn Đồng: Văn hoá và đổi mới, Nxb CTQG, H, 1994, tr.75.
2. Hội đồng Lý luận Trung ương: Lẽ phải của chúng ta, Nxb CTQG, H, 2004, tr.351.
3. Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, Nguyệt san Công giáo và Dân tộc số 49, tr.34.
4. Xem Nguyệt san Công giáo và dân tộc số 128, tháng 8-2005, tr.27.
5. Gioan - Phaolô II: Bước qua ngưỡg cửa của hy vọng - Trần Thái Bình dịch, 1994, tr.162.

Nguồn: Trang thông tin Mặt trận tổ quốc Việt Nam

BÀN VỀ VĂN HOÁ DÒNG HỌ HIỆN NAY

Truyền thống văn hoá dòng họ Việt Nam đã có từ lâu đời. Dù ai đi đâu ở đâu, làm bất cứ nghề gì đều phải nhớ ngày giỗ Tổ Tiên của họ nhà mình. Đó là một truyền thống tốt đẹp cần duy trì và phát triển. Hiện nay, khi đất nước bước vào nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc họ và văn hoá dòng họ đang phát triển mở rộng phù hợp với thời đại thông tin. Song, do quan niệm không đầy đủ về bản chất văn hoá dòng họ, nên trong hoạt động có những biểu hiện đi ngược lại bản chất vốn tốt đẹp của văn hoá dòng họ. Nhiều cá nhân và nhóm người đang lợi dụng hoạt động dòng họ, tưởng nhớ Tổ Tiên, tiền nhân của quần chúng để trục lợi cá nhân hoặc trục lợi cho riêng dòng họ của mình. Nhằm mục đích góp phần giữ gìn và duy trì một nét văn hoá tốt đẹp-“việc họ”, xin bàn một số nội dung sau về văn hoá dòng họ.

1. “Họ”, “việc họ” và “văn hoá dòng họ”
Muốn nghiên cứu một hiện tượng, sự vật, một vấn đề khoa học nào, điều trước tiên, ta cần phải hiểu rõ khái niệm về nó, sau đó là đặc điểm, yêu cầu, mục đích, nhiệm vụ... Xem xét, nhìn nhận về văn hoá dòng họ, cần hiểu rõ những khái niệm “họ”, “việc họ” và “văn hoá dòng họ”.
Họ là tập hợp nhiều gia đình (tế bào của xã hội) có cùng huyết thống, do cùng một người sinh ra (tổ, thuỷ tổ). Không cùng huyết thống, đương nhiên không cùng họ. Vì nhiều lý do không lưu trữ và sự hiểu biết có hạn của con người, nên việc xác định họ chỉ có giới hạn nhất định, mang tính rất tương đối. Từ trước đến nay, thời nào cũng thế, những người đang sống cũng chỉ biết thuỷ tổ của họ mình đến một số đời nhất định. Thông thường biết đến 9, 10 đời; có họ đến 30, cá biệt đến 80 đời. Họ phát triển theo quy luật tự nhiên, không theo đơn vị hành chính. Thông thường, trên một địa bàn có nhiều họ sinh sống và có họ ở nhiều nơi. Tuy nhiên, cá biệt, cũng có thôn, làng chỉ có một họ.
Theo nghĩa cùng huyết thống (cùng một thuỷ tổ) mới cùng họ, nên cho dù người ta có cùng mang tên một họ mà không cùng huyết thống cũng không phải là cùng họ. Vì không hiểu rõ điều này, nên nhiều người (đa số) trong xã hội ta hiện nay cứ thấy trùng tên họ là coi như cùng họ. Nhiều cá nhân, nhóm người đã lợi dụng thực trạng này tổ chức ra các ban liên lạc họ theo đơn vị hành chính các cấp, giống như các tổ chức xã hội khác (như Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi…). Rồi các ban liên lạc này tổ chức ra các hình thức hoạt động như: cúng bái, tế lễ, xây nhà thờ, từ đường, xây mộ; kèm với nó là kêu gọi công đức, tài trợ, quyên góp. Những hoạt động này đã có nơi, có lúc làm cho xã hội vốn phức tạp càng phức tạp hơn.
Việc họ: Theo văn hoá dòng họ truyền thống chỉ là việc thờ cúng Tổ Tiên, viết gia phả, tổ chức giúp đỡ nhau trong ma chay, cưới hỏi. Đồng thời giáo dục con cháu chăm lo học hành, có hiếu với bố mẹ ông bà, thương yêu, đoàn kết trong họ. Nghiêm trị những ai làm các việc sai trái với gia đình, họ và xã hội. Việc họ, được mọi người thực hiện hoàn toàn tự giác, tự đến cúng giỗ, tự đóng góp, tuỳ khả năng trên tinh thần đoàn kết theo quy ước của họ, không ai hoặc tổ chức nào bắt buộc. Ai không theo việc họ là bất hiếu, nên dù giầu hay nghèo, không mấy ai bỏ việc họ. Việc họ là việc nội bộ của dòng họ, không ai đi cúng giỗ người khác họ. Trong việc họ kỵ nhất là “thấy kẻ sang bắc quàng làm họ”, cúng nhầm Tổ Tiên và nhận nhầm mộ.
Văn hoá dòng họ: Như mọi loại văn hoá khác, văn hoá dòng họ phải hướng tới chân, thiện, mỹ.
Trong hoạt động dòng họ, cần nhất là phải chân thực và thành tâm, làm cho mỗi người tốt hơn, mỗi gia đình tốt hơn. Ai cũng tự giác lo toan việc họ. Không ai làm điều bất chính với Tiên Tổ, gia đình và xã hội. Mọi người trong họ đoàn kết, giúp đỡ thương yêu nhau, làm ăn, học hành tiến bộ và có nhiều đóng góp cho xã hội. Các việc họ được thực hiện ngày càng có nề nếp, hoàn thiện và đầy đủ hơn.

2. Xác định thuỷ tổ và những hệ lụy
Một việc cực kỳ quan trọng trong văn hoá dòng họ là viết gia phả, và trong viết gia phả điều chủ chốt nhất là xác định vị thuỷ tổ. Nếu quan niệm vị thuỷ tổ là người đầu tiên của họ thì đây là điều không tưởng, không bao giờ xác định được. Vì vậy, thông thường thuỷ tổ là người đầu tiên mà gia phả có ghi hoặc người đang sống còn nhớ. Trong một xã hội, những người cùng mang tên một họ, thường có những vị thuỷ tổ khác nhau. Có bao nhiêu họ đang tồn tại thì có bấy nhiêu vị thuỷ tổ.
Chính vì vậy, mà cá nhân, nhóm người nào có ý định làm cái việc xác định thuỷ tổ cho những người cùng mang tên một họ là ý tưởng viển vông, không tồn tại trong thực tiễn xã hội loài người, và không bao giờ tìm được. Nếu có chăng thì chỉ ở thế giới đối diện với trần thế, thế giới mà ở đấy, người ta biết tường tận quá khứ, hiện taị và tương lai của từng con người trên mặt Trái Đất. Những người tự tuyên bố đã xác định được vị thuỷ tổ cho tất cả những người cùng mang tên một họ của một nước, một tỉnh, một huyện…là quá phi khoa học, nếu như không muốn gọi đó là một trò lừa bịp. Thế mà, hiện nay trên đất nước Việt Nam ta có rất nhiều ban liên lạc của những người cùng mang tên một họ, dựng lên một vị thuỷ tổ. Điều này cực kỳ vô lý. Hãy xem một ví dụ: Họ A toàn quốc, vị thuỷ tổ là B. Nên nhớ rằng, cùng thời với ông B, còn có rất nhiều người khác nữa mang họ A. vì vậy, chắc chắn là, mọi người có họ A hiện nay không thể đều là con cháu, huyết thống của ông B. Rất tiếc, nhiều người hiện nay lại ngộ nhận tin có cùng vị thuỷ tổ là B (thường là tiến sĩ hoặc làm quan to). Bằng chứng là họ cứ kéo về nơi thờ ông B để tri ân với Tiên Tổ. Hoặc nếu ông B chưa có nơi thờ cúng hay mồ mả còn sơ sài, họ sẵn sàng công đức, đóng góp xây dựng và để có tên trong bảng vàng công đức. Mấy người ở các ban liên lạc bảo họ rằng: Thế là họ có hiếu, có lòng tri ân đối với Tiên Tổ. Thật tội nghiệp cho những người đã ngộ nhận ông B là thuỷ tổ của mình!
Tại sao văn hoá dòng họ hiện nay lại như vậy, ai đã nỡ để cho những người ở các ban liên lạc họ (A, B, C…) Việt Nam làm những điều thất đức như vậy, hệ luỵ là:
- Những người tổ chức ở các ban liên lạc theo mô hình toàn quốc, tỉnh, huyện, thậm chí là xã, đã phạm phải tội lừa dối: Lừa cả người sống và lừa cả người chết. Lừa người sống thì đã rõ rồi: có rất nhiều người, thuỷ tổ của họ mình thì không biết hoặc không cúng, mà lại đi cúng thuỷ tổ họ khác! Đối với người chết cũng bị lừa: Nhiều người đến cúng không phải là người trong họ của ông. Biết đâu, các ông thuỷ tổ khác nghi cho ông lôi kéo con cháu họ, có khi ông bị đánh oan hoặc phải chịu nhiều lời trách móc ở thế giới bên kia.
- Quan hệ tâm linh giữa ông thuỷ tổ được tôn thờ và mấy ông trong ban liên lac dòng họ có thể nảy sinh hai trường hợp: Nếu ông thuỷ tổ không phải là thuỷ tổ của mấy ông trong ban liên lạc thì thật tội nghiệp cho mấy ông vì đã đi thờ cúng thuỷ tổ họ khác, còn thuỷ tổ họ mình thì chẳng hiểu có biết không. Đáng đời cho những kẻ hiếu danh! Còn nếu ông thuỷ tổ đúng là thuỷ tổ của mấy ông trong ban liên lạc thì tội của mấy ông còn dày gấp bội vì đã lừa dối người khác (đồng loại) đến cúng thuỷ tổ họ của mình và đóng góp cho họ nhà mình.

3. Hậu quả tai hại của một tổ chức không đúng chức năng trong văn hoá dòng họ
Việc các ban liên lạc dòng họ theo hệ thống chính quyền các cấp tự phát xuất hiện như nấm gặp mưa từ hàng chục năm trở lại đây đã hoạt động không đúng với chức năng trong văn hoá dòng họ, dẫn đến nhiều hậu quả tai hại, giống với những tiêu cực trong hoạt động của một số tôn giáo.
Hãy quan sát việc làm sách, in thông tin của các ban liên lạc. Sách đều mang tên cá nhân. Nhưng trước khi làm, họ kêu gọi huy động tài trợ của cái gọi là “bà con trong họ ta”. Khi sách in xong, lại kêu gọi “bà con trong họ” mua để hiểu rõ sự tích họ ta. Không ai biết rằng, chỉ với 5 đầu sách in ra, mỗi đầu sách in một nghìn bản, trung bình giá mỗi bản là 50 nghìn đồng. Tác giả thu về, tổng số 250 triệu đồng. Không hiểu số tiền này có của “bà con trong họ” không?. Trong các báo cáo tổng kết hoạt động của dòng họ sau 5 năm, 10 năm, nghe thấy ông Tổng thư ký hoan hỉ thông báo “họ ta đã xuất bản được 5 đầu sách nói về dòng họ, xác định rõ được ông thuỷ tổ”, bà con trong họ chỉ còn biết vỗ tay, còn chẳng biết nó có lợi, hại thế nào và lợi, hại với ai!
Trước khi xuất hiện các ban liên lạc dòng họ, văn hoá dòng họ vẫn là loại văn hoá có ảnh hưởng sâu sắc và có tác động tích cực đến đời sống mọi gia đình Việt Nam. Từ ngày có các ban liên lạc, đồng nghĩa với việc “chính quyền hoá” hoạt động dòng họ, văn hoá dòng họ bắt đầu có biểu hiện đi lệnh hướng. Khái niệm họ bị thay đổi, bỗng nhiên xuất hiện những ông trưởng ban cứ như là ông trưởng họ của cả một huyện, một tỉnh, một nước. Thật giả bắt đầu lẫn lộn. Và điều này không thể không ảnh hưởng đến tư tưởng của đại đa số người dân. Có nhiều người, cứ thấy vô lý về các ông được coi là thuỷ tổ của mình, mà lại do mấy người ở ban liên lạc nói như vậy! Khá nhiều người cũng hoang mang. Nhiều người dân, chưa thấy lợi gì cho mình so với khi chưa có ban liên lạc, kể cả về quan niệm tâm linh, nhưng nhiều khi cũng cứ băn khoăn về các khoản đóng góp, khi thì xây mồ mả ông này, khi thì xây mồ mả ông kia, mà không biết có liên quan gì đến họ nhà mình; lúc lại thấy hô hào đóng góp cho quỹ họ toàn quốc, quỹ khuyến học…cứ giống y như bên chính quyền. Có họ (thực chất là những người cùng mang tên một họ) có khoảng 4 triệu người, theo điều tra dân số mới nhất. Ông trưởng ban liên lạc toàn quốc, tính rằng, nếu mỗi người đóng góp 10 nghìn đồng, cả họ ta cũng có quỹ 40 tỷ để chi tiêu cho việc họ. Phải khen rằng, trình độ toán học của ông này cũng khá cao. Từ một số tiền chẳng đáng là bao (10 nghìn đồng), ông đã làm ra 40 tỷ đồng! Trước kia, làm gì có ông trưởng họ nào làm được điều đó. Vì vậy cũng phải thôi, nhiều kẻ khen ông là có tài, mặc dù ông đã khá nhiều tuổi, họ bảo ông cứ làm trưởng ban khoá này, khoá sau và khoá sau nữa! Còn đối với “bà con trong họ”, nhiều khi còn phải vất vả với những chuyến đi xa (có khi ở khác tỉnh, khác miền) để dự hội nghị, động thổ nhà thờ, cúng lễ tưởng nhớ…. Có nơi, còn xảy ra sự tranh chấp nơi thờ tự, cãi vã nhau về ông gọi là “thuỷ tổ của cả họ toàn quốc”. Khi chưa lập ra các ban liên lạc, làm gì có những chuyện lộn xộn như thế.

4. Biện pháp cấp bách cần chấn chỉnh hoạt động của các ban liên lạc dòng họ hiện nay
Tổ chức theo huyết thống của con người có 2 cấp độ: gia đình và họ. Khác với các tổ chức xã hội hoặc tổ chức chính trị-xã hội (quan hệ xã hội), đặc điểm của tổ chức (quan hệ huyết thống) hoàn toàn mang tính tự nguyện, tự giác cao, tôn trọng cao, với tình yêu thương vô hạn, không cần thiết phải áp dụng kiểu tổ chức chính quyền, có tính bắt buộc. Từ sự khác nhau căn bản giữa tổ chức theo huyết thống và tổ chức xã hội (chính trị-xã hội), nên cách thức tổ chức là hoàn toàn khác nhau, và phải khác nhau mới phù hợp với bản chất của mỗi loại, không thể áp dụng hình thức của loại tổ chức này cho loại tổ chức kia. Khái niệm họ, phải được hiểu là họ huyết thống. Còn họ gắn với ban liên lạc, phải được hiểu là “những họ cùng mang tên một họ”. Ví dụ: Ban liên lạc họ A huyện B, trong đó “họ A” được hiểu là “các họ A”, chứ không phải chỉ có một họ A ở huyện B. Theo thống kê của Hội Khuyến học Việt Nam, năm 2010, cả nước có trên 4 vạn họ đạt danh hiệu “dòng họ khuyến học”, hiểu họ như vậy mới hoàn toàn đúng. Ở Trung Quốc, gia phả của họ Khổng Tử đã có trên 80 đời; hiện nay ai họ Khổng muốn biết mình có thuộc họ Khổng Tử đều phải qua xác định AND mới được công nhận.
Để giải quyết triệt để những điều bất cập trong hoạt động dòng họ hiện nay và tránh chồng chéo nội dung hoạt động với các tổ chức chính trị-xã hội khác, tốt nhất trong hoạt động dòng họ không cần thiết phải tổ chức theo các cấp chính quyền. Ban liên lạc dòng họ các cấp đã có hiện nay cần điều chỉnh lại chức năng, nhiệm vụ, cách tổ chức và nội dung hoạt động cho phù hợp với đặc điểm đặc thù của hoạt động dòng họ. Nên chuyển thành các câu lạc bộ của những người có sở thích nghiên cứu về việc họ. Nhiệm vụ của nó phải xuất phát từ nhu cầu của các họ huyết thống, có nhiệm vụ chính là: - Tổ chức giao lưu, thông tin, liên lạc giữa các họ; tư vấn, hướng dẫn việc họ;
- Quan hệ chặt chẽ với cơ quan văn hoá của chính quyền và các cơ quan có liên quan để thực hiện tốt nhiệm vụ và nội dung hoạt động dòng họ.
Tổ chức ban liên lạc (câu lạc bộ) các cấp phải theo nguyên tắc: các họ có nhu cầu và hoàn toàn tự nguyện (không áp đặt hoặc kêu gọi) và từ dưới lên trên, dựa trên cơ sở các họ huyết thống. Hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự đóng góp của các thành viên câu lạc bộ, không được phép kêu gọi tài trợ, quyên góp của bà con các họ huyết thống. Khi xuất bản ấn phẩm như thông tin, tạp chí, sách, ban biên tập và các tác giả tuân thủ theo quy chế của Bộ Thông tin và Văn hoá.
Bản chất của văn hoá dòng họ là văn hoá thờ kính Tổ Tiên, vì vậy đối với một dòng họ thường có 3 việc tối cần thiết, đó là: Viết gia phả, xây dựng nơi thờ tự và xây mộ. Những việc đó là việc của các họ huyết thống, không phải của ban liên lạc hoặc câu lạc bộ.

(Tổng hợp và sưu tầm)