Hiển thị các bài đăng có nhãn tư vấn hôn nhân gia đình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tư vấn hôn nhân gia đình. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2013

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 QUA THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA NGÀNH TÒA ÁN – NHỮNG BẤT CẬP, HẠN CHẾ VÀ ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG


THAM LUẬN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC TỔNG KẾT THI HÀNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 – 16/4/2013
Tòa án với tư cách là cơ quan duy nhất trong hệ thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét xử, có vai trò quan trọng trong việc góp phần tuân thủ, chấp hành các quy định của pháp luật. Từ việc áp dụng các quy định của pháp luật trong công tác xét xử các vụ việc thuộc nhiệm vụ của mình, Tòa án góp phần tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật của Nhà nước đến nhân dân,… Qua đó, đóng góp quan trọng đến công tác tổng kết thực tiễn, kinh nghiệm xét xử, tác động đến chất lượng công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Tòa án nói riêng và Nhà nước ta nói chung.
Luật Hôn nhân và Gia đình (sau đây viết tắt là Luật HNGĐ) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-01-2001. Sau hơn mười hai năm thi hành, Luật HNGĐ đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Bảo đảm ổn định cuộc sống gia đình trong xã hội phát huy truyền thống phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam nâng cao vai trò trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc tôn trọng và chấp hành các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, qua quá trình giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình của ngành Tòa án cho thấy, một số quy định của Luật HNGĐ không phù hợp với thực tiễn, có những quy định mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác, có những quy định chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp), có những quy định chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau, có những quy định chưa bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, có những vấn đề mới phát sinh trong xã hội chưa được pháp luật về hôn nhân và gia đình điều chỉnh,…
Trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi xin đề cập những vướng mắc, bất cập của một số quy định của Luật HNGĐ. Những vướng mắc bất cập này được tổng hợp nghiên cứu qua quá trình tổng kết thực tiễn thi hành Luật HNGĐ năm 2000 trong công tác xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình của ngành Tòa án các cấp trên phạm vi toàn quốc. Qua đó đưa ra một số kiến nghị đề xuất sửa đổi, bổ sung đối với Luật HNGĐ.
I. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA NGÀNH TÒA ÁN
Qua việc tổng hợp số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, từ ngày 01-9-2000 đến ngày 30-9-2011, Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý 3.143.746 vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính, hôn nhân và gia đình. Trong đó số vụ việc về hôn nhân và gia đình là 875.282 (chiếm khoảng 30% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý). Ngành Tòa án đã thực hiện tốt quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Cụ thể như sau[1]:
1.1. Về công tác giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình ở cấp sơ thẩm
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Tổng cộng
Tổng số vụ việc đã thụ lý
55082
60265
57138
63151
65238
68833
74484
77624
94710
103332
121848
841.705
Số vụ việc đã giải quyết
48878
(88%)
51461
(85%)
51618
90%
57272
(90%)
59791
( 91%)
64058
(93%)
70204
(94%)
66347
(85%)
89609
(94%)
97627
( 94%)
115331
( 94%)
772.201 (92%)
Qua bảng số liệu trên cho thấy việc giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình ở cấp sơ thẩm ngành Tòa án luôn đạt tỷ lệ cao (từ 88% – đến 94%), đặc biệt là 3 năm gần đây (năm 2009, 2010, 2011) đều giữ được tỷ lệ là 94% và đạt trung bình trong 11 năm qua (từ năm 2001-2011) là 92%, hoàn thành tốt nhiệm vụ mục tiêu đề ra trong toàn ngành. Tỷ lệ các vụ việc hôn nhân và gia đình bị kháng cáo, kháng nghị chiếm khoảng 9% số vụ việc đã giải quyết.
1.2. Về công tác giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình ở cấp phúc thẩm
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Tổng cộng
Tổng số vụ việc đã thụ lý
2698
2702
3781
2968
2969
2951
2936
2857
2782
2590
2781
32.012
Số vụ việc đã giải quyết
2576
(đạt tỷ lệ 95%)
2443
(đạt tỷ lệ 90%)
3714
(đạt tỷ lệ 98%)
2805
(đạt tỷ lệ 94%)
2833
(đạt tỷ lệ 95%)
2826
(đạt tỷ lệ 95%)
2840
(đạt tỷ lệ 96%)
2503
(đạt tỷ lệ 87%)
2704
(đạt tỷ lệ 97%)
2516
(đạt tỷ lệ 97%)
2666
(đạt tỷ lệ 95%)
30.426 (đạt tỷ lệ trung bình 95%)
Qua bảng số liệu trên cho thấy công tác xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình ở cấp phúc thẩm không ngừng được nâng cao và đạt kết quả cao (từ 87% – đến 98%), đặc biệt là 3 năm gần đây (năm 2009, 2010, 2011) đều giữ được tỷ lệ cao từ 95- 97% và đạt trung bình trong 11 năm qua (từ năm 2001-2011) là 95%. Tỷ lệ kháng nghị chiếm khoảng 5% số vụ việc đã giải quyết.
1.3. Về công tác giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Tổng cộng
Tổng số vụ việc đã thụ lý
129
138
71
131
326
81
141
107
128
149
161
1.562
Số vụ việc đã giải quyết
124
(đạt tỷ lệ 96%)
98
(đạt tỷ lệ 71%)
67
(đạt tỷ lệ 94%)
124
(đạt tỷ lệ 94%)
325
(đạt tỷ lệ 99%)
79
(đạt tỷ lệ 97%)
130
(đạt tỷ lệ 92%)
94
(đạt tỷ lệ 87%)
119
(đạt tỷ lệ 92%)
136
(đạt tỷ lệ 91%)
144
(đạt tỷ lệ 89%)
1.440 (đạt tỷ lệ trung bình 92%)
Qua bảng số liệu trên cho thấy, việc giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hàng năm không ngừng được quan tâm, chú trọng cao (từ 71% – đến 99%), đặc biệt là 3 năm gần đây (năm 2009, 2010, 2011) đều giữ được tỷ lệ cao từ 89- 92% và đạt trung bình trong 11 năm qua (từ năm 2001-2011) là 92%. Bên cạnh đó qua công tác giám đốc kiểm tra các hồ sơ vụ việc hôn nhân và gia đình đã giải quyết có hiệu lực pháp luật thi hành, phát hiện những sai sót cũng được chú ý, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình nói riêng và công tác xét xử nói chung của ngành Tòa án.
1.4. Về số vụ việc hôn nhân và gia đình bị hủy, sửa
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
Năm
2011
Tổng cộng
Tổng số
vụ việc đã giải quyết
51578
54002
55399
60206
62949
66963
73174
68944
92432
100279
118141
804.067
Số vụ việc bị
hủy, sửa
1571
(chiếm tỷ lệ 3%)
1315
(chiếm tỷ lệ 2%)
1896
(chiếm tỷ lệ 3%)
1481
(chiếm tỷ lệ 2%)
1619
(chiếm tỷ lệ 2%)
1381
(chiếm tỷ lệ 2%)
1467
(chiếm tỷ lệ 2%)
1406
(chiếm tỷ lệ 2%)
1344
(chiếm tỷ lệ 1%)
1305
(chiếm tỷ lệ 1%)
1315
(chiếm tỷ lệ 1%)
16.100 (chiếm tỷ lệ trung bình 2%)
Qua bảng số liệu trên cho thấy, tỷ lệ án bị hủy, sửa so với tổng số vụ việc đã giải quyết trong 11 năm qua (từ năm 2001-2011) chiếm tỷ lệ trung bình là 2%. Cùng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn bộ cán bộ ngành Tòa án thực hiện công tác xét xử ở các cấp, cũng như sự quan tâm giúp đỡ của các cấp lãnh đạo ngành Tòa án, cấp ủy, chính quyền địa phương, chất lượng xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình ngày một nâng lên, tỷ lệ án bị hủy, sửa đã giảm đáng kể, đặc biệt là 3 năm gần đây (năm 2009, 2010, 2011) tỷ lệ án bị hủy, sửa đã giảm đáng kể và ở mức 1%.
II. NHỮNG HẠN CHẾ, BẤT CẬP QUA THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT HNGĐ CỦA NGÀNH TÒA ÁN VÀ KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT HNGĐ
2.1. Về áp dụng phong tục tập quán về hôn nhân và gia đình (Điều 6 – Luật HNGĐ)
Điều 6 Luật HNGĐ quy định “Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, những phong tục, tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những nguyên tắc quy định tại Luật này thì được tôn trọng và phát huy”. Đây là quy định mang tính nguyên tắc cơ bản về áp dụng phong tục, tập quán trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, có thể thấy quy định này còn chung chung, chưa đáp ứng được yêu cầu có thể áp dụng trực tiếp trong công tác giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa án, như trường hợp phong tục tập quán tốt đẹp nhưng khác với quy định của pháp luật thì có áp dụng phong tục tập quán đó hay không. Bởi liên quan tới nguyên tắc áp dụng tập quán, theo quy định của Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2005 thì Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán, nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này. Nếu theo quy định này của Bộ luật dân sự thì tập quán tốt đẹp trong hôn nhân sẽ không được áp dụng nếu như đã có quy định của pháp luật về cùng vấn đề. Như vậy vô hình chung chính sách “giữ gìn và phát huy truyền thống những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc” của Nhà nước Việt Nam được cụ thể hóa trong Luật HNGĐ sẽ không được áp dụng hiệu quả.
Bên cạnh đó, Việt Nam có 54 dân tộc anh em, là nước đa dân tộc, đa bản sắc, nên việc áp dụng phong tục tập quán không giống nhau. Trong thực tiễn khi giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình có ảnh hưởng của phong tục tập quán gặp nhiều khó khăn trong việc ghi lời khai, thu thập các chứng cứ có liên quan như các trường hợp: Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn, nhưng lại được cộng đồng dân cư nơi đó bảo vệ và công nhận, khi xảy ra tranh chấp Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết đã gặp phải sự phản đối của các bên đương sự; hoặc trường hợp nam nữ kết hôn đã tuân thủ quy định về cấm kết hôn trong phạm vi ba đời, như họ vẫn có quan hệ họ hàng mà theo quan niệm tại nơi sinh sống không cho phép kết hôn, do vậy không được gia đình thừa nhận quan hệ hôn nhân và những quyền tài sản liên quan như không được chia ruộng đất, hoặc trường hợp tranh chấp về các lễ vật, sính lễ theo phong tục cưới hỏi,… Vấn đề giải quyết tranh chấp về các lễ vật, sính lễ theo phong tục cưới hỏi, trước đây Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn tại mục 3 Nghị quyết số 01/1988/NQ-HĐTP ngày 20-01-1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình. Tuy nhiên, hiện nay hướng dẫn này đã không được áp dụng bởi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 đã hết hiệu lực thi hành, trong khi đó từ sau khi Luật HNGĐ năm 2000 có hiệu lực lại chưa có hướng dẫn về vấn đề này.
Để việc áp dụng phong tục tập quán trong quan hệ hôn nhân và gia đình đậm đà bản sắc dân tộc, hạn chế và bài trừ những hủ tục lạc hậu, không phù hợp, Luật HNGĐ cần xây dựng cụ thể việc áp dụng phong tục tập quán theo nguyên tắc cơ bản sau: Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng và bình đẳng, phong tục tập quán có nội dung không trái với nguyên tắc của Luật HNGĐ; chỉ áp dụng phong tục tập quán đã thông dụng, được đông đảo mọi người sinh sống trên địa bàn, cùng dân tộc đó, cùng tôn giáo thừa nhận và chỉ áp dụng trên địa bàn đó; phát huy vai trò của người đứng đầu cộng đồng, chức sắc tôn giáo và cần đưa nguyên tắc áp dụng án lệ trong trường hợp này. Cần quy định cụ thể hơn theo hướng mở, tức là nếu phong tục tập quán tốt đẹp, phù hợp với xã hội thì áp dụng phong tục tập quán đó.
2.2. Về điều kiện kết hôn về độ tuổi (Điều 9 Luật HNGĐ)
Điều 9 Luật HNGĐ quy định các điều kiện kết hôn, trong đó có điều kiện về độ tuổi kết hôn của nam là từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên. Tuy nhiên, khi giải quyết những vụ việc ly hôn mà người vợ chưa đủ 18 tuổi thì quy định về độ tuổi kết hôn của Luật HNGĐ mâu thuẫn với quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khả năng tham gia tố tụng của người vợ chưa đủ 18 tuổi này.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nguyên tắc, người chưa đủ 18 tuổi khi tham gia tố tụng phải có người đại diện. Tuy nhiên, đối với vụ việc ly hôn đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng (khoản 3 Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự). Như vậy, Tòa án không thể giải quyết vụ việc ly hôn cho đến khi người vợ đủ 18 tuổi và điều này có thể gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người liên quan trong vụ việc ly hôn, hoặc trong các giao dịch mà có sự mâu thuẫn về quyền lợi giữa người vợ và người chồng.
Đồng thời, việc quy định nữ từ 18 tuổi trở lên được phép kết hôn, nhưng không có những quy định ngoại lệ về năng lực hành vi của người nữ từ 18 tuổi đã kết hôn trong việc tham gia các giao dịch, quan hệ xã hội,… dẫn đến sự không đồng bộ trong quy dịnh của Bộ luật dân sự về người đã thành niên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên không bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Từ đó rất khó khăn cho việc người vợ tham gia các giao dịch dân sự đòi hỏi phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
Về vấn đề này chúng tôi cho rằng: Quy định về độ tuổi kết hôn của Luật HNGĐ là phù hợp với điều kiện hiện nay ở Việt Nam. Tuy nhiên để thống nhất đồng bộ giữa các văn bản pháp luật và giải quyết các vấn đề vướng mắc nêu trên thì cần bổ sung quy định:Nữ từ đủ 18 tuổi trở lên được phép kết hôn.
2.3. Về các trường hợp cấm kết hôn (Điều 10 Luật HNGĐ)
Điều 10 Luật HNGĐ quy định các trường hợp cấm kết hôn. Trong đó khoản 2 quy định cấm kết hôn đối với người mất năng lực hành vi dân sự (NLHVDS). Tuy nhiên, theo quy định của Điều 22 Bộ luật dân sự 2005, thì một người chỉ bị mất NLHVDS phải do Tòa án tuyên bố. Do vậy, thực tiễn giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình liên quan vấn đề này đã phát sinh vấn đề: Có nhiều trường hợp vì một số lý do mà kết hôn với người thực tế không thể nhận thức, không làm chủ được hành vi của mình nhưng chưa bị Toà án tuyên bố mất NLHVDS, khi nhận ra hoặc không thể chung sống với người này được nữa, người vợ/ chồng có nhu cầu muốn ly hôn được hướng dẫn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật theo quy định tại khoản 3 Điều 15 Luật HNGĐ. Tòa án thụ lý yêu cầu giải quyết hủy hôn nhân trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền (cụ thể là Hội liên hiệp phụ nữ,…) thì gặp phải ý kiến phản đối của phía gia đình người vợ/chồng và Ủy ban nhân dân nơi cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Ủy ban nhân dân nơi cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho rằng: Họ đã tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật (vì người vợ/chồng chưa bị Toà án tuyên bố là mất NLHVDS. Do đó người vợ/chồng tuy không thể nhận thức, không làm chủ hành vi nhưng chưa có quyết định của Tòa án tuyên người đó mất NLHVDS thì vẫn coi là người bình thường). Một số trường hợp kết hôn và đã gây hậu quả xấu cho xã hội.
Để hạn chế tình trạng nhiều người thực tế đã rơi vào tình trạng mất NLHVDS nhưng chưa bị Toà án tuyên bố mất NLHVDS vẫn được cho đăng ký kết hôn, dẫn đến những hậu quả xấu cho xã hội, Luật HNGĐ cần quy định chi tiết hơn về trường hợp này theo hướng: trong trường hợp có dấu hiệu bị mất NLHVDS… thì chính quyền địa phương phải có trách nhiệm kiểm tra, xem xét trước khi cho đăng ký kết hôn.
2.4. Về tài sản vợ chồng
Chế độ tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng được Luật HNGĐ qua các thời kỳ quy định khác nhau. Luật HNGĐ năm 1959 (Điều 15) quy định vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới, Luật HNGĐ năm 1987 (Điều 16) quy định tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng, Luật HNGĐ năm 2000 (Điều 27 về tài sản chung vợ chồng) lại quy định:
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Thực tế giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình đã gặp nhiều khó khăn trong việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng. Tài sản riêng được đưa vào sử dụng chung nhưng không có thỏa thuận bằng văn bản còn có nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, tài sản vợ chồng đang quản lý chung mặc dù một người đứng tên, không có văn bản thỏa thuận đó là tài sản riêng thì vẫn là tài sản chung của vợ chồng.
Quan điểm thứ hai cho rằng, tài sản có trước khi kết hôn hoặc được thừa kế, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân cho dù có đưa vào sử dụng chung, nhưng vẫn đứng tên người đó, không có văn bản xác nhận đó là tài sản chung thì tài sản đó được xác định là tài sản riêng của vợ hoặc chồng.
Điều 28 Luật HNGĐ quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng, có sử dụng cụm từ “tài sản có giá trị lớn hoặc nguồn sống duy nhất của gia đình”. Tuy nhiên, hiện nay chưa có tiêu chí để xác định như thế nào là tài sản có giá trị lớn nên dẫn đến nhiều Toà án lúng túng trong việc giải quyết tranh chấp.
Đồng thời, trong thực tế, sau khi kết hôn một hoặc các bên sử dụng tài sản chung của vợ chồng để đầu tư vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Khi ly hôn, việc chia tài sản chung của vợ chồng đối với phần tài sản đã đầu tư vào sản xuất kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Luật HNGĐ mới chỉ quy định nguyên tắc chung tại điểm c khoản 2 Điều 95 “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập”, chưa quy định cụ thể hậu quả việc chia tài sản chung trong góp vốn vào doanh nghiệp. Do đó, khi có vụ việc xảy ra, Tòa án lúng túng trong việc áp dụng pháp luật.
Để giải quyết được những khó khăn, bất cập nêu trên, cần phải sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể về việc xác lập, xác định và chia tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng trong Luật HNGĐ cho phù hợp với thực tiễn và có tính đặc thù, công nhận cả thỏa thuận bằng miệng, bằng văn bản không tuân thủ quy định về hình thức. Ví dụ: quy định rõ các bên có quyền thoả thuận về tài sản chung và tài sản riêng. Trong trường hợp không có thoả thuận thì tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng.
Đồng thời, cần mở rộng các quy định về tài sản nhằm đảm bảo bao hàm cả những loại tài sản mới xuất hiện trong xã hội như quyền sở hữu trí tuệ của vợ hoặc chồng làm phát sinh về tài sản có được coi tài sản chung của vợ chồng. Các giao dịch về chứng khoán, về góp vốn trong doanh nghiệp,… cũng cần được quy định cụ thể trong Luật HNGĐ.
2.5. Về cấp dưỡng
Điều 53 Luật HNGĐ quy định:
1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết”.
Điều 56 của Luật HNGĐ quy định:
Khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Mức cấp dưỡng cho con do cha, mẹ thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết”.
Những quy định này còn quá chung chung, chưa có sự thống nhất. Thực tế hiện nay Tòa án ấn định mức cấp dưỡng thấp hơn rất nhiều so với nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Bởi nhu cầu thực tế đối với người được cấp dưỡng chưa có tiêu chí cụ thể để xác định như về ăn, mặc, đi lại, học tập, chữa bệnh,…
Mức cấp dưỡng hiện nay đã được quy định chi tiết và hướng dẫn tại Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03-10-2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình 2000: Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên trong quá trình thi hành, áp dụng các quy định này chưa có sự thống nhất, mức áp dụng trên thực tế còn thấp. Do đó cần quy định mức cấp dưỡng cụ thể vào Luật HNGĐ để thống nhất cách áp dụng trong mọi trường hợp. Mức cấp dưỡng cần được quy định ít nhất bằng 1/2 mức lương tối thiểu của từng thời điểm mà Nhà nước quy định để làm căn cứ tính mức cấp dưỡng, đồng thời đưa ra các tiêu chí làm căn cứ xác định mức cấp dưỡng (như thu nhập thực tế của người có nghĩa vụ phải cấp dưỡng, mức sống tại địa phương,…).
2.6. Về quyền yêu cầu ly hôn
Khoản 1 Điều 85 Luật HNGĐ quy định: “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn”. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay có rất nhiều trường hợp cha hoặc mẹ viết đơn gửi Tòa án với tư cách là người đại diện xin ly hôn cho con của mình bị mắc bệnh tâm thần. Trường hợp này, Tòa án nhân dân các cấp đã có cách giải quyết khác nhau. Có Tòa án không thụ lý vụ án, vì người yêu cầu không có quyền được yêu cầu ly hôn theo quy định của Luật HNGĐ, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy rằng sự việc trên có cả văn bản xác nhận của Hội liên hiệp phụ nữ, chính quyền địa phương về hành vi ngược đãi của người chồng, không chăm sóc cho người vợ bị mất NLHVDS, có quan hệ tình cảm với người khác,… Có Tòa án thụ lý nhưng lại gặp khó khăn vướng mắc về áp dụng pháp luật tố tụng dân sự, Bộ luật dân sự về vấn đề đại diện. Bởi trước khi yêu cầu ly hôn thì cần phải có tuyên bố của Toà án về việc người vợ/chồng bị mất NLHVDS. Theo quy định của Bộ luật dân sự, Luật HNGĐ vợ chồng có quyền đại diện cho nhau: Nhưng trong trường hợp này vợ chồng không thể thực hiện quyền đại diện cho nhau vì quyền lợi của họ đối lập nhau, tuy nhiên việc cử người thân của người mắc bnh tâm thần làm đại diện cũng gặp khó khăn vì pháp luật không quy định cụ thể người thân của người mắc bệnh tâm thần làm đại diện hoặc được cử nhưng do không đồng ý, không tham gia tố tụng,… Các quy định này vô hình chung dẫn đến khó khăn cho Tòa án trong việc xác định người đại diện, cử người đại diện trong vụ án ly hôn với một bên mắc bệnh tâm thần.
Để giải quyết vướng mắc này, cần nghiên cứu, bổ sung quy định: người thân có quyền nộp đơn cho một người bị mất NLHVDS khi có căn cứ chứng minh được người vợ (hoặc chồng) có hành vi ngược đãi, không thương yêu chăm sóc người đó.
2.7. Về căn cứ cho ly hôn
Theo quy định của Điều 89 Luật HNGĐ thì căn cứ cho ly hôn gồm:
1. Toà án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án quyết định cho ly hôn.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn”.
Hiện nay, ngành Tòa án nhân dân nhận được nhiều đơn yêu cầu ly hôn của một bên đề nghị ly hôn với người đang bị truy nã do vi phạm pháp luật, nhưng Luật HNGĐ không có quy định cho ly hôn trong trường hợp này, nên Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ án. Điều đó đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đề nghị giải quyết cho ly hôn.
Luật HNGĐ cần quy định cụ thể thế nào là tình trạng hôn nhân trầm trọng? Đồng thời, để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, cần quy định các trường hợp bị truy nã, người mất NLHVDS là các căn cứ cho ly hôn.
2.8. Về quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ, chồng, các thành viên trong gia đình
Phần quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con còn quá chung chung, không cụ thể. Những quy định đó khó áp dụng trong thực tiễn xét xử. Hiện nay, Tòa án nhận được một số đơn đề nghị của đương sự (ông, bà) về yêu cầu vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái khi cả hai vợ chồng đều bỏ mặc không chăm sóc, nuôi dưỡng con của mình bị bại liệt bẩm sinh, vì Luật HNGĐ chỉ quy định chung chung, chưa cụ thể và thiếu chế tài, dẫn đến tình trạng đứa trẻ không được cha mẹ chăm sóc, quan tâm mà chưa có chế tài xử lý trường hợp thiếu trách nhiệm.
Để giải quyết vấn đề nêu trên, Luật HNGĐ cần bổ sung quy định về chế tài, trách nhiệm đối với vợ, chồng không thực hiện nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, hoặc thành niên nhưng bị tàn tật, mất NLHVDS. Đồng thời, cần bổ sung quy định trong trường hợp vợ chồng ly hôn mà con có đóng góp công sức trong khối tài sản chung thì phải tính chia tài sản cho con.
2.9. Về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
Vấn đề quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài hiện nay cũng đã được hướng dẫn tạiThông tư số 07/2002/TT-BTP ngày 16-12-2002 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10-7-2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài: Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15-9-2011 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật Tương trợ tư pháp”: Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình.
Trong thực tiễn công tác xét xử của ngành Toà án cho thấy có nhiều vướng mắc trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài như: Trường hợp người Việt Nam đi lao động xuất khẩu ở nước ngoài, hết thời hạn hợp đồng lao động không về nước mà trốn ở lại sống lưu vong, khi người vợ/chồng ở Việt Nam muốn ly hôn với họ nhưng không biết họ ở đâu, không có liên lạc với gia đình; hoặc trường hợp người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, sau một thời gian sinh sống với vợ/chồng ở nước ngoài trở về Việt Nam và có yêu cầu ly hôn với chồng/vợ đang ở nước ngoài,… Những trường hợp này Toà án đã thực hiện mọi biện pháp cần thiết như uỷ thác ra nước ngoài nhưng vẫn không có kết quả, dẫn đến vụ việc không được giải quyết ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự.
Để thống nhất và nâng cao hiệu lực áp dụng của văn bản, cần nghiên cứu pháp triển một số quy định chi tiết hoặc hướng dẫn mang tính quy phạm lớn đưa vào Luật HNGĐ. Đồng thời cần quy định rõ hơn về các vấn đề cụ thể của hôn nhân có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là việc giải quyết ly hôn khi có tài sản ở nước ngoài.
2.10. Về các vấn đề cụ thể khác
Về thuật ngữ “xin ly hôn” ở khoản 2 Điều 85, khoản 2 Điều 89 Luật HNGĐ, có nhiều ý kiến cho rằng không nên dùng thuật ngữ này. Vì ly hôn là một trong những quyền về dân sự mà mỗi cá nhân được pháp luật ghi nhận. Đó là quyền của họ, họ không phải “đi xin” Tòa án. Mặt khác, để thống nhất cách sử dụng thuật ngữ này trong Luật HNGĐ, đề nghị nên sửa lại là “yêu cầu ly hôn”.
2.11. Về các quan hệ đã có trên thực tế chưa được Luật HNGĐ quy định hoặc quy định chưa cụ thể
· Thỏa thuận tài sản trước khi kết hôn-Hôn ước
Quyền về tài sản là quyền cơ bản được Hiến pháp, Bộ luật dân sự quy định cho mỗi cá nhân. Do đó, mỗi cá nhân có quyền định đoạt, chiếm hữu, sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của mình mà không bị pháp luật cấm. Để khắc phục những bất cập hiện nay về vấn đề tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng thì cần bổ sung quy định: Vợ chồng có quyền thỏa thuận về tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng trước khi kết hôn mà không trái pháp luật.
· Về ly thân
Hiện nay, Luật HNGĐ chưa quy định chế định về ly thân, nhưng trên thực tế hiện tượng này vẫn xảy ra. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau nên có những cặp vợ chồng không lựa chọn việc chấm dứt mối quan hệ hôn nhân của mình là ly hôn (như do tuổi cao, danh dự, uy tín, sợ ảnh hưởng tâm lý của các con,…). Nhiều trường hợp vợ chồng có yêu cầu Toà án bảo đảm về pháp lý cho tình trạng ly thân của mình nhưng Toà án không có căn cứ để giải quyết. Do đó, vấn đề ly thân có nên được điều chỉnh trong Luật HNGĐ trong tình hình xã hội hiện nay hay không, ngành Tòa án nhân dân cũng còn nhiều quan điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, Luật HNGĐ không nên quy định chế định ly thân, vì dưới góc độ pháp lý, Luật HNGĐ không có quy định nào về việc vợ chồng nhất thiết phải sống chung cùng nhau. Mặt khác bản chất của ly thân không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân và không phù hợp với thuần phong mỹ tục của gia đình Việt Nam.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, đây là giải pháp chủ yếu được nhiều cặp vợ chồng lựa chọn để giải quyết mâu thuẫn ngoài biện pháp cuối cùng là ly hôn (đặc biệt trong Công giáo không được phép ly hôn), ly thân còn là một biện pháp hữu hiệu tránh tình trạng bạo lực gia đình, thời gian sống ly thân vợ chồng có thời gian cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đi tới quyết định cuối cùng về hôn nhân. Mặt khác, để giải quyết được vấn đề minh bạch trong việc các bên thực hiện giao dịch phát sinh quyền và nghĩa vụ khi ly thân, cũng như quyền lợi của các con, các thành viên khác trong gia đình được đảm bảo, đề nghị quy định cụ thể vấn đề này trong Luật HNGĐ (con cái, tài sản trong thời gian ly thân), vì vấn đề này là thực tiễn đã xảy ra và không thể cấm.
Về vấn đề này, tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1995, TANDTC đã có kết luận: “Luật hôn nhân và gia đình không quy định Tòa án thụ lý và giải quyết yêu cầu ly thân, nhưng Điều 18 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định “khi hôn nhân tồn tại, nếu một hoặc các bên yêu cầu và có lý do chính đáng thì có thể chia tài sản chung vợ chồng”. Trong trường hợp này thông thường quan hệ vợ chồng đã rạn nứt, các đương sự thực tế đã ly thân. Khi chia tài sản nếu họ đặt vấn đề Tòa án xác nhận tình trạng ly thân thì Tòa án có thể xác nhận. Nếu các đương sự chỉ đơn thuần xin ly thân thì Tòa án giải thích cho họ tự định đoạt mà không thụ lý giải quyết cho ly thân hay không”. Như vậy, vấn đề ly thân đã được TANDTC nhắc đến và hướng dẫn Tòa án nhân dân các cấp thực hiện ở những năm trước đây khi chưa có Luật HNGĐ năm 2000.
Chúng tôi cho rằng: Ly thân là vấn đề cần được nghiên cứu kỹ, trường hợp quy định về chế định này thì cần quy định cụ thể đảm bảo có căn cứ ly thân và việc giải quyết hậu quả của ly thân như vấn đề tài sản, con cái,… để Toà án có căn cứ hợp pháp giải quyết.
· Về quan hệ chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn
Đây là vấn đề đã được hướng dẫn khá cụ thể tại Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09-6-2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình: Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp ngày 03-01-2000 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9-6-2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình: Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Tuy nhiên để có tính quy phạm áp dụng chung cho mọi đối tượng trong xã hội, hiện nay có hai quan điểm khác nhau.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, vấn đề này cần giữ như quy định hiện hành. Vì nếu thừa nhận dẫn đến tình trạng nhiều trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn, gây khó khăn trong công tác quản lý, và cũng vô hình chung thừa nhận tình trạng “sống thử” trong giới trẻ hiện nay. Tuy nhiên, cần quy định cụ thể về quyền nhân thân, quyền về tài sản, quyền giữa cha mẹ và con giữa các bên có quan hệ chung sống như vợ chồng. Vì thực tế hiện nay xảy ra hiện tượng này là phổ biến, có phát sinh vấn đề con cái, tài sản. Tòa án đã thụ lý và giải quyết rất nhiều trường hợp.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, pháp luật cần tôn trọng quyền tự do của công dân, không thể lấy điều kiện phải đăng ký kết hôn (vi phạm về hình thức) để xác lập các quyền khác (con chung, tài sản chung,…). Nếu có tranh chấp thì họ phải tự chịu hậu quả của việc sống chung đó. Đề nghị nên quy định chế định này trong Luật HNGĐ. Cụ thể, cần quy định các tiêu chí làm căn cứ công nhận như: không công nhận quan hệ vợ chồng; không cho phép đăng ký kết hôn với người thứ ba khi đang sống với người khác như vợ chồng và được xem là trường hợp cấm kết hôn. Về tài sản chung, cần quy định theo nguyên tắc không xác định tài sản chung của các bên, quan hệ tài sản ở đây là hình thức sở hữu chung theo phần: Về con chung, được thực hiện theo quy định của Luật HNGĐ.
· Về kết hôn giữa những người cùng giới tính
Kết hôn giữa những người cùng giới tính không phải là vấn đề mới trên thế giới và cũng đang là vấn đề nóng tại Việt Nam. Việc những người có cùng giới tính chung sống như vợ chồng, có các mối quan hệ về tình cảm, tài sản chung, con cái phát sinh đã xảy ra nhiều trên thực tế. Tuy nhiên, xã hội hiện nay còn có cái nhìn khác nhau về vấn đề này:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, đây là mối quan hệ không phù hợp với tập quán, văn hóa gia đình Việt Nam, không phải hôn nhân đích thực, trái với tự nhiên, trái phong tục tập quán. Đa số các nước trên thế giới đều không công nhận. Do vậy, không nên quy định vấn đề này trong Luật HNGĐ.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, đây là vấn đề nhạy cảm, mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Hiện nay, đời sống được nâng lên, quan điểm sống “thoáng” hơn trước, do vậy, pháp luật cần công nhận hiện tượng này, nhưng cần có các quy định cụ thể, rõ ràng về các mối quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung,… Để khi có tranh chấp có cơ chế giải quyết phù hợp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các bên.
- Quan điểm thứ ba và cũng là đa số quan điểm của các Tòa án nhân dân các cấp cho rằng: Cần có thời gian nghiên cứu, đánh giá toàn diện về loại quan hệ này và cần có đánh giá tác động về mặt xã hội. Sau đó cân nhắc, xin ý kiến các cơ quan chức năng có liên quan về việc nên hay không nên đưa vấn đề này điều chỉnh trong Luật HNGĐ.
Việc nghiên cứu và quy định về vấn đề này cần đảm bảo các quy định về quyền con người được pháp luật Việt Nam bảo vệ như quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử, quyền được mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân,…
· Về vấn đề mang thai hộ
Mang thai hộ là vấn đề chưa được Luật HNGĐ điều chỉnh. Hiện nay, chỉ có Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12-02-2003 của Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa học có quy định: Nhà nước nghiêm cấm các hành vi mang thai hộ và sinh sản vô tính. Tuy nhiên, Nghị định này cũng chưa quy định về hậu quả pháp lý của việc mang thai hộ. Mang thai hộ là nhu cầu thực tiễn trong xã hội và đang diễn ra ngày càng nhiều. Đây cũng là vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền mưu cầu hạnh phúc của các cá nhân, gia đình, do đó cần thiết phải pháp điển hoá quy định về vấn đề này lên tầm văn bản luật, chứ không nên điều chỉnh trong văn bản dưới luật.
Vấn đề này qua trao đổi, tập hợp ý kiến của Tòa án nhân dân các cấp cũng còn nhiều quan điểm khác nhau.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, đây là loại dịch vụ không thể cấm vì thực tế vẫn đang tồn tại. Từ sự kiện này có thể xác định được quan hệ cha mẹ con, quan hệ nuôi dưỡng, tài sản,… do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đồng thời tạo điều kiện cho những cặp vợ chồng không có khả năng sinh con cũng có con như ý muốn cần quy định rõ trong Luật HNGĐ và lưu ý các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại.
Thứ hai, trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì cần xác định các tiêu chí cụ thể làm căn cứ xác định trường hợp được phép mang thai hộ.
Thứ ba, quy định cụ thể về việc giải quyết hậu quả. Xác định cha, mẹ, con, vấn đề cấp dưỡng, giải quyết vi phạm hợp đồng mang thai hộ, các trường hợp mang thai hộ vi phạm điều cấm của pháp luật.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, hiện nay chưa nên đưa vấn đề mang thai hộ điều chỉnh trong Luật HNGĐ. Đề nghị thực hiện như quy định tại Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12-02-2003 của Chính phủ: “Nhà nước nghiêm cấm các hành vi mang thai hộ và sinh sản vô tính. Trẻ ra đời do thực hiện hỗ trợ sinh sản phải được sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân và họ là cha, mẹ đối với đứa trẻ sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”. Cần nghiên cứu kỹ vấn đề này vì đây là vấn đề liên quan đến đạo đức, kinh tế, đặc biệt là mối quan hệ giữa người mang thai hộ và đứa trẻ sinh ra. Do đó, cần có thời gian nghiên cứu, đánh giá cụ thể và xin ý kiến các cơ quan chức năng có liên quan về việc nên hay không nên đưa vấn đề này điều chỉnh trong Luật HNGĐ.
Chúng tôi cho rằng, mang thai hộ là vấn đề mang tính nhu cầu thực tiễn trước hết là vì mục đích nhân đạo, mưu cầu hạnh phúc của các cá nhân, gia đình không có khả năng sinh con. Do đó mang thai hộ có thể được quy định cho phép vì mục đích nhân đạo. Đồng thời với quy định cho phép này cần đảm bảo có các quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của các bên và xác lập quan hệ cha mẹ, con cái, quyền nghĩa vụ giữa cha mẹ và đứa con được sinh ra bằng hình thức này để đảm bảo tránh tranh chấp xảy ra giữa các bên gây hiện tượng xấu trong xã hội. Đồng thời, cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại có thể làm trầm trọng hơn tình trạng buôn bán người hiện nay.
2.4. Cần pháp triển hóa những văn bản hướng dẫn Luật HNGĐ, Nghị quyết của Quốc hội mà phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, không trái với những quy định khác của pháp luật.

Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013

HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN KÊT HÔN CÓ COI LÀ HỦY HÔN NHÂN TRÁI PHÁP LUẬT KHÔNG?


Kết hôn là một trong những quyền cơ bản của công dân được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ theo quy định pháp luật. Theo Điều 39 Bộ luật Dân sự quy định quyền kết hôn của công dân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ theo các quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình. Tại khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.
Công dân khi đăng ký kết hôn phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình; trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn được quy định tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch. Cụ thể như sau:
Thẩm quyền đăng ký kết hôn: Theo khoản 1 Điều 17 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn.
Thủ tục đăng ký kết hôn: Khoản 1 Điều 18 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định khi đăng ký kết hôn hai bên phải nộp tờ khai đăng ký kết hôn hoặc giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (theo mẫu quy định) và xuất trình giấy chứng minh nhân dân.
Nếu một người cư trú tại xã, phường, thị trấn này, nhưng đăng ký kết hôn tại xã phường thị trấn khác, phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó.
Đối với người đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn phải có xác nhận của cơ quan ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tại nước sở tại về tình trạng hôn nhân của người đó.
Đối với cán bộ, chiến sỹ đang công tác trong lực lượng vũ trang thì phải có xác nhận của Thủ trưởng đơn vị.
- Thời hạn đăng ký kết hôn: Theo quy định tại Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân gia đình và chứng thực thì thời gian đăng ký kết hôn được rút ngắn từ 5 ngày xuống còn 3 ngày.
Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy hai bên nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, thì Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký kết hôn cho hai bên nam, nữ. Trong trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
Trường hợp khi đăng ký kết hôn nếu hai bên nam, nữ không tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn và vi phạm các quy định về đăng ký kết hôn thì người đi đăng ký kết hôn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm trong lĩnh vực tư pháp. Đối với những trường hợp đăng ký kết hôn vi phạm quy định về trình tự, thủ tục như trên thì tại điểm k, khoản 1, Điều 78 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ đăng ký và quản lý hộ tịch quy định: Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền ra quyết định thu hồi, hủy bỏ những giấy tờ hộ tịch do Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trái quy định.
Thực tiễn thi hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP trên địa bàn thành phố Hà Nội có trường hợp Ủy ban nhân dân cấp huyện phải ra quyết định thu hồi, huỷ bỏ giấy chứng nhận kết hôn do vi phạm về trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn, dẫn đến việc khiếu kiện của người liên quan và một số quan điểm khác nhau về hậu quả pháp lý của việc huỷ giấy chứng nhận kết hôn trái pháp luật, xin nêu ví dụ thực tiễn như sau:
Ông Lê Xuân T 69 tuổi, thường trú tại số 6 phố Lê Thánh Tông, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội kết hôn cùng bà Nguyễn Thị D 31 tuổi, thường trú tại Đội 6, thôn Hạ, xã Phù Lưu Tế, huyện Mỹ Đức, Hà Nội.
Sau khi kết hôn được 6 ngày thì ông T qua đời, để lại khối tài sản gồm: 2 ngôi nhà biệt thự tại trung tâm thành phố Hà Nội cùng nhiều tài sản có giá trị khác. Ngày 12/02/2009, bà Lê Thị Tú N (con gái ông Lê Xuân T) gửi đơn khiếu kiện đề nghị Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn giữa ông Lê Xuân T và bà Nguyễn Thị D vì thiếu thủ tục khi đăng ký kết hôn do Ủy ban nhân dân xã Phù Lưu Tế đăng ký ngày 27/01/2007. Sau khi có đơn kiếu kiện Phòng Tư pháp huyện Mỹ Đức, Hà Nội tiến hành kiểm tra hồ sơ xin đăng ký kết hôn của ông T và bà D (giấy chứng nhận kết hôn số 09; quyển 01 đăng ký ngày 27/01/2007 tại Ủy ban nhân dân xã Phù Lưu Tế, huyện Mỹ Đức, Hà Nội) thì thấy: Ông Lê Xuân T đã có vợ, nhưng đã chết. Trong hồ sơ xin đăng ký kết hôn không có tờ khai xin đăng ký kết của ông T và bà D; Ông T không có xác nhận tình trạng hôn nhân từ thời gian 29/12/2005 đến ngày 27/01/2007. Như vậy, tại thời điểm ông Lê Xuân T và bà Nguyễn Thị D đăng ký kết hôn là đủ điều kiện kết hôn được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình nhưng lại vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 18 của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch. Ngày 22/4/2009, Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức ban hành Quyết định số 595/QĐ-UBND về việc thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn số 09; quyển 01 đăng ký ngày 27/01/2007 tại Ủy ban nhân dân xã Phù Lưu Tế là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1.k Điều 78 của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.
Từ tình huống thực tiễn trên, tác giả bài viết xin nêu một số quan điểm giải quyết cũng như hậu quả pháp lý của việc Ủy ban nhân dân cấp huyện ra quyết định thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn như sau:
Thứ nhất: Giấy chứng nhận kết hôn là một trong những giấy tờ hộ tịch. Tại thời điểm ông Lê Xuân T và bà Nguyễn Thị D đăng ký kết hôn là đủ điều kiện kết hôn được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình, nhưng lại vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 18 của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch. Việc Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức ban hành Quyết định số 595/QĐ-UBND ngày 22/4/2005 về việc thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn số 09; quyển 01 đăng ký ngày 27/01/2007 tại Ủy ban nhân dân xã Phù Lưu Tế là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1.k Điều 78 của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.
Thứ hai: Quan hệ hôn nhân giữa ông Lê Xuân T và bà Nguyễn Thị D được xác lập trên cơ sở đảm bảo đầy đủ về điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 9, đồng thời không vi phạm những trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Ủy ban nhân dân xã Phù Lưu Tế đã cấp giấy chứng nhận kết hôn cho ông T và bà D là đúng thẩm quyền. Sau khi ông T chết, do có khiếu nại, nên Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức kiểm tra hồ sơ đăng ký kết hôn mới phát hiện thiếu tờ khai đăng ký kết hôn và giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Nếu bình thường, chỉ cần bổ sung là hợp lệ nhưng trường hợp này người chồng lại chết. Lỗi này thuộc về trách nhiệm cán bộ tư pháp xã Phù Lưu tế đã không hướng dẫn cho người dân và không thể vì lỗi của chính quyền mà đẩy hậu quả sang cho người dân được. Căn cứ điểm k, khoản 1, Điều 78 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch, Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức ban hành quyết định thu hồi, hủy bỏ những giấy chứng nhận kết hôn đã cấp cho ông T và bà D là máy móc, chỉ dựa theo tư duy pháp lý đơn thuần vì các giấy tờ còn thiếu trong hồ sơ kết hôn chỉ là thủ tục hành chính phản ánh về điều kiện kết hôn mà thôi.
Thứ ba: Hậu quả pháp lý của việc Ủy ban nhân dân cấp huyện huỷ giấy chứng nhận kết hôn của cơ quan hành chính xã như thế nào; có phát sinh quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà D từ thời điểm đăng ký kết hôn đến ngày quyết định hành chính hủy quyết định đăng ký kết hôn có hiệu lực không? Lý giải vấn đề này có ý nghĩa trong tình huống thực tiễn trên là bà D có quyền thừa kế và yêu cầu phân chia di sản thừa kế của ông T, sau khi có quyết định hành chính huỷ giấy chứng nhận kết hôn hay không. Vấn đề sẽ trở nên phức tạp thêm trong trường hợp sau đó bà D có con chung với ông T… thì quyền và lợi ích hợp pháp của bà D sẽ được giải quyết như thế nào.
Thứ tư: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định rõ về việc huỷ kết hôn trái pháp luật. Cụ thể tại Điều 15 quy định về người có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật; Điều 16 quy định thẩm quyền huỷ kết hôn trái pháp luật thuộc về Toà án; Điều 17 quy định về hậu quả pháp lý của việc huỷ kết hôn trái pháp luật; căn cứ để huỷ kết hôn trái pháp luật trong trường hợp kết hôn vi phạm Điều 9 (điều kiện kết hôn) và Điều 10 (những trường hợp cấm kết hôn) Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Đối chiếu các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình với tình huống thực tiễn trên thì giả thiết có khởi kiện ra Toà án thì Toà án cũng không có căn cứ để huỷ hôn nhân trái pháp luật.
Tuy nhiên, tình huống thực tiễn trên cho thấy chỉ vì thiếu một số thủ tục hành chính chứng minh về điều kiện hôn nhân để ra một quyết định hành chính huỷ giấy chứng nhận đăng ký kết hôn đồng thời bỏ lửng hậu quả pháp lý liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cho thấy sự bất cập, không phù hợp quy định của pháp luật.
Quan điểm của tác giả đồng tình với quan điểm thứ tư, đồng thời đưa ra kiến nghị cần quy định rõ về thẩm quyền huỷ các giấy tờ hộ tịch trái pháp luật trong dự thảo Luật Hộ tịch; đối với việc kết hôn nếu có dấu hiệu trái pháp luật, thì trong mọi trường hợp việc giải quyết thuộc thẩm quyền Toà án, không để quy định chung chung dẫn đến việc Ủy ban nhân dân cấp huyện cũng có thẩm quyền huỷ giấy chứng nhận đăng ký kết hôn như tình huống thực tiễn trên.
Nguồn:TẠP CHÍ DÂN CHỦ PHÁP LUẬT ĐIỆN TỬ

Chủ Nhật, 9 tháng 9, 2012

MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT HỘ TỊCH VỚI LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHẾ ĐỊNH HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ĐẾN DỰ ÁN LUẬT HỘ TỊCH


1. Về mối quan hệ giữa Luật Hộ tịch với Luật HN-GĐ
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Luật HN-GĐ), phạm vi điều chỉnh của Luật HN-GĐ là quy định chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam (Điều 1). Theo dự thảo Luật Hộ tịch, phạm vi điều chỉnh của Luật Hộ tịch là quy định nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục đăng ký hộ tịch; quyền và nghĩa vụ của cá nhân, cơ sở dữ liệu điện tử; thống kê hộ tịch và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quan lý nhà nước về hộ tịch (Điều 1). Như vậy, việc xác định phạm vi của Luật Hộ tịch trong mối quan hệ với Luật HN-GĐ là rất cần thiết nhằm phân định rõ ràng hơn những nội dung, vấn đề cần được quy định, giải quyết ngay trong Luật Hộ tịch cũng như trong Luật HN-GĐ cho phù hợp với thực tiễn và trong bối cảnh giữa hai luật có những điểm chung, giao thoa và gắn kết với nhau.
Về quan hệ giữa hai Luật, có thể tiếp cận theo hai phương diện:
Thứ nhất, trên phương diện luật nội dung và luật hình thức, Luật HN-GĐ quy định về các quyền, nghĩa vụ về hôn nhân và gia đình và Luật Hộ tịch quy định thủ tục đăng ký hộ tịch nhằm tôn trọng và bảo đảm các quyền, nghĩa vụ đó. Ở phương diện này, xét về kỹ thuật lập pháp, những quy định về thẩm quyền, thủ tục đăng ký hộ tịch liên quan đến các quan hệ hôn nhân và gia đình cần được quy định trong Luật Hộ tịch không quy định trong Luật HN-GĐ, đồng thời cũng không đưa vào trong Luật Hộ tịch những quy định về các quyền, nghĩa vụ của cá nhân trong các quan hệ hôn nhân và gia đình. Ví dụ, Luật HN-GĐ quy định quyền kết hôn và các điều kiện kết hôn, Luật Hộ tịch quy định về thẩm quyền, thủ tục đăng ký kết hôn.
Quy định như vậy sẽ đảm bảo xác định được rõ ràng, cụ thể phạm vi điều chỉnh của hai luật, đồng bộ, thống nhất trong quy định về quyền, nghĩa vụ hôn nhân và gia đình, các quy định về đăng ký hộ tịch và quản lý nhà nước về hộ tịch cũng có sự đồng bộ, thống nhất hơn.
Tuy nhiên, nếu thuần túy trên phương diện luật nội dung và luật hình thức để xác định quy định nào đưa vào luật nào cũng có điểm cần cân nhắc, bởi vì việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và đăng ký một quyền về hôn nhân và gia đình không đơn giản là một thủ tục mà nó thuộc nội dung quyền của cá nhân. Mặt khác, nếu Luật Hộ tịch thuần túy chỉ quy định về thẩm quyền, thủ tục thì cũng chưa đảm bảo hết vị trí của Luật Hộ tịch là đạo luật trực tiếp liên quan đến phạm trù quyền con người, quyền công dân nói chung, quyền về hôn nhân và gia đình nói riêng.
Thứ hai, trên phương diện luật chung và luật riêng, Luật HN-GĐ là luật chung quy định về chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam, còn Luật Hộ tịch là luật riêng quy định về thẩm quyền, nguyên tắc, thủ tục đăng ký hộ tịch trong các quan hệ hôn nhân và gia đình. Ở phương diện này, giữa hai Luật có những điểm chung, sự giao thoa và gắn kết với nhau tương đối rõ nét. Luật HN-GĐ vẫn có các quy định có tính nguyên tắc về trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nghi thức trong đăng ký hộ tịch về hôn nhân và gia đình, Luật Hộ tịch sẽ cụ thể hóa các quy định có tính nguyên tắc trên của Luật HN-GĐ, đồng thời quy định cụ thể về thủ tục đăng ký hộ tịch về hôn nhân và gia đình thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch. Trong áp dụng pháp luật về đăng ký hộ tịch, các quy định của Luật Hộ tịch được ưu tiên áp dụng, quy định có tính nguyên tắc của Luật HN-GĐ được áp dụng khi Luật Hộ tịch không có quy định.
Quy định như vậy sẽ đảm bảo được sự đồng bộ trong một thể thống nhất về quy định quyền và cơ chế bảo đảm công nhận, thực thi quyền về hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, với yêu cầu của việc hoàn thiện thể chế, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất, có hiệu lực cao cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, từ đó tạo chuyển biến cơ bản, từng bước chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa công tác quản lý và đăng ký hộ tịch, Luật Hộ tịch cũng cần có những nội dung, quy định mang tính đột phá. Những quy định này phải vượt lên một số quy định hiện thời của Luật HN-GĐ và các luật nội dung khác có liên quan chưa thực sự theo kịp với yêu cầu cuộc sống, đặc biệt là chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính, tôn trọng và bảo đảm tốt hơn các quyền nhân thân của cá nhân, trong đó có các quyền về hôn nhân và gia đình.
Theo cách tiếp cận đó, với tư cách là luật riêng, Luật Hộ tịch hoàn toàn có thể quy định những nội dung mà Luật HN-GĐ và các luật nội dung khác chưa quy định hoặc đã quy định nhưng không còn phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay, nếu chờ để sửa đổi, bổ sung các luật nội dung thì sẽ chậm và không đồng bộ với dự án Luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Ví dụ: (1) Đối với kết hôn giữa công dân Việt Nam tại Việt Nam, dự thảo Luật Hộ tịch quy định Ủy ban nhân dân cấp xã nơi quản lý Sổ Bộ hộ tịch hoặc nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ có thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn (Luật HN-GĐ chỉ quy định cơ quan có thẩm quyền là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ); (2) Đối với kết hôn có yếu tố nước ngoài, dự thảo Luật Hộ tịch đã có sự đột phá khi quy định thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã và Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của Ủy ban nhân dân cấp Huyện về việc đăng ký kết hôn (Luật HN-GĐ quy định thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài thuộc về Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương).
Với phân tích như trên, theo quan điểm của chúng tôi, khi xây dựng Luật Hộ tịch cần xem xét mối quan hệ giữa Luật này với Luật HN-GĐ và các luật nội dung khác trên cả hai phương diện: Luật Hộ tịch là luật hình thức, đồng thời cũng là luật riêng của luật nội dung. Tiếp cận như vậy sẽ đạt được các mục tiêu: (1) đảm bảo xác định được rõ ràng, cụ thể phạm vi điều chỉnh của hai luật; (2) đảm bảo được sự đồng bộ trong một thể thống nhất về quy định quyền và cơ chế bảo đảm công nhận, thực thi quyền về hôn nhân và gia đình, khắc phục được những bất cập, hạn chế trong quy định của Luật HN-GĐ không còn phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay; (3) tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất, có hiệu lực cao cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, từ đó tạo chuyển biến cơ bản, từng bước chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa công tác quản lý và đăng ký hộ tịch.
2. Về tác động của các chế định hôn nhân và gia đình đến dự án Luật Hộ tịch
2.1. Chế định kết hôn và đăng ký kết hôn (Điều 8 – Điều 17 Luật HN-GĐ năm 2000)
* Kết hôn và đăng ký kết hôn theo quy định của Luật HN-GĐ
Kết hôn theo quy định của Luật HN-GĐ là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn (khoản 2 Điều 8). Như vậy, việc kết hôn chỉ có giá trị về pháp lý khi việc kết hôn được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (khoản 1 Điều 11) và không vi phạm các điều kiện kết hôn theo luật định (Điều 9 và Điều 10). Trong đó, đăng ký kết hôn vừa là quyền của cá nhân đối với Nhà nước về hợp thức hóa việc kết hôn của mình, vừa là thủ tục do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực hiện, các bên kết hôn phải tuân thủ để để hợp thức hóa việc kết hôn của họ.
Các nước trên thế giới tùy theo đặc thù của hệ thống pháp luật quốc gia, quy định về đăng ký kết hôn trong Bộ luật Dân sự, Luật HN-GĐ hoặc trong văn bản luật riêng về hộ tịch, nhưng nhìn chung có hai nghi thức đăng ký kết hôn được thừa nhận: nghi thức dân sự (do cơ quan nhà nước thực hiện – được áp dụng ở hầu hết các quốc gia) và nghi thức tôn giáo (do nhà thờ được nhà nước cấp phép thực hiện – phổ biến ở các nước có quốc giáo là đạo cơ đốc). Ngoài ra, ở những nước thừa nhận hôn nhân thực tế (chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn theo nghi thức luật định) thì nghi thức kết hôn theo truyền thống, tập quán cũng có thể là căn cứ để Tòa án xem xét tính hợp pháp của hôn nhân. Dù có khác biệt về nghi thức đăng ký kết hôn, nhưng một điểm chung giữa các quốc gia là việc tuân thủ các điều kiện kết hôn là một yêu cầu nghiêm ngặt đối với các bên kết hôn để đảm bảo việc kết hôn không trái pháp luật.
Luật HN-GĐ Việt Nam quy định nghi thức dân sự (đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền) là nghi thức đăng ký kết hôn duy nhất được thừa nhận, việc kết hôn theo nghi thức tôn giáo hoặc theo nghi thức truyền thống được tôn trọng về tín ngưỡng, văn hóa và đạo đức, nhưng không có giá trị về pháp lý (khoản 1 Điều 11). Trong trường hợp việc kết hôn được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng vi phạm một trong các điều kiện kết hôn theo luật định thì việc kết hôn đó là trái pháp luật và có thể bị tòa án xử hủy (khoản 3 Điều 8 và Điều 16).
Về thẩm quyền đăng ký kết hôn, Điều 12 Luật HN-GĐ quy định: “Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn. Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài”. Về thủ tục đăng ký kết hôn, Điều 13 Luật này quy định: “1. Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật về hộ tịch, cơ quan đăng ký kết hôn kiểm tra hồ sơ đăng ký kết hôn; nếu xét thấy hai bên nam nữ có đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn tổ chức đăng ký kết hôn.
2. Trong trường hợp một bên hoặc cả hai bên không đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn từ chối đăng ký và giải thích rõ lý do bằng văn bản; nếu người bị từ chối không đồng ý thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật”.
Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên (Điều 14).
* Tác động đến dự án Luật Hộ tịch
Qua các quy định của Luật HN-GĐ về kết hôn và đăng ký kết hôn, có thể đưa ra những tác động:
Thứ nhất, nguyên tắc tự nguyện trong kết hôn phải được tôn trọng và bảo đảm trong các quy định của Luật Hộ tịch, không quy định những thủ tục làm cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
Đánh giá: Dự thảo Luật Hộ tịch đã đáp ứng tốt yêu cầu này khi quy định nguyên tắc đầu tiên trong đăng ký hộ tịch là tôn trọng và bảo đảm quyền nhân thân của cá nhân; quy định về quyền, nghĩa vụ; bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ đăng ký hộ tịch của cá nhân; các hành vi bị nghiêm cấm trong đăng ký hộ tịch và thẩm quyền, thủ tục trong đăng ký kết hôn (Điều 5, 6, 7, 8, 9, Điều 25 và khoản 5 Điều 26).
Thứ hai, việc đăng ký kết hôn chỉ được thực hiện khi các bên kết hôn đã tuân thủ điều kiện kết hôn theo luật định.
Luật HN-GĐ quy định các điều kiện kết hôn để các bên kết hôn phải tuân thủ. Trên cơ sở đó, Luật Hộ tịch cần phải có các quy định về thủ tục, Hộ tịch viên và cơ quan có thẩm quyền về đăng ký hộ tịch căn cứ vào đó xác định được người có yêu cầu kết hôn đã tuân thủ các điều kiện kết hôn tại thời điểm đăng ký.
Đánh giá: Dự thảo Luật Hộ tịch về cơ bản đã đưa ra được cơ chế để xác định sự tuân thủ điều kiện kết hôn của người có yêu cầu kết hôn khi quy định: (1) người đi đăng ký kết hôn phải xuất trình chứng minh thư hoặc giấy tờ hợp lệ thay thế, Giấy chứng minh nơi cư trú, tờ khai đăng ký kết hôn và sổ hộ tịch cá nhân của bên nam và bên nữ (khoản 1 Điều 26); (2) việc kết hôn được tổ chức tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã với sự có mặt của cả hai bên nam, nữ (khoản 4 Điều 26).
Tuy nhiên, Dự thảo Luật cũng chưa quy định cụ thể Tờ khai đăng ký kết hôn cần có nội dung gì và việc xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có bắt buộc hay không? Theo pháp luật về đăng ký hộ tịch hiện hành, nội dung chính của Tờ khai đăng ký kết hôn là xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (ủy ban nhân dân cơ sở nơi cư trú, cơ quan đại diện ngoại giao hoặc thủ trưởng đơn vị trong lực lượng vũ trang) về tình trạng hôn nhân của người có yêu cầu kết hôn. Nếu tiếp tục kế thừa quy định này, Luật Hộ tịch vẫn chưa giải quyết được vướng mắc trong thực tiễn hiện nay về việc đăng ký kết hôn cho người có nhiều nơi cư trú, người làm nghề lưu động không có nơi cư trú ổn định, việc làm tờ khai đăng ký kết hôn có xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là rất phức tạp và khó có thể có được xác nhận vì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền không có thông tin. Bộ Tư pháp cũng đã có hướng dẫn cho phép người có yêu cầu về kết hôn không có nơi cư trú ổn định làm cam kết về tình trạng hôn nhân của mình (Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/8/2008 hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về Đăng ký hộ tịch), đây là hướng dẫn phù hợp với thực tiễn, nhưng để áp dụng pháp luật thống nhất, cần pháp điển hóa hướng dẫn này vào Luật Hộ tịch.
Mặt khác, Dự thảo Luật cũng chưa đưa ra được nguyên tắc thống nhất trong xác định việc các bên kết hôn tuân thủ điều kiện kết hôn khác, ví dụ: trong trường hợp một trong hai bên kết hôn có dấu hiệu không nhận thức được năng lực hành vi của mình tại thời điểm đăng ký kết hôn, thì thủ tục và thẩm quyền của hộ tịch viên trong trường hợp này là như thế nào? điểm d khoản 1 Điều 47 của dự thảo Luật quy định các bên kết hôn phải có xác nhận của cơ quan y tế cấp huyện trở lên của Việt Nam hoặc tổ chức y tế có thẩm quyền của nước ngoài cấp chưa quá 6 tháng tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận hiện tại các bên kết hôn không mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, nhưng quy định này chỉ áp dụng cho thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Thứ ba, về thẩm quyền và thủ tục đăng ký kết hôn
Luật HN-GĐ năm 2000 quy định tương đối chi tiết về thẩm quyền và thủ tục đăng ký kết hôn, trong bối cảnh Luật Hộ tịch được ban hành thì các quy định này của Luật HN-GĐ cần được rà soát lại, những quy định thuần túy về thẩm quyền và thủ tục cần được quy định trong Luật Hộ tịch. Tuy nhiên, nguyên tắc về thẩm quyền và nghi thức đăng ký kết hôn cần phải được ghi nhận trong Luật HN-GĐ vì nó liên quan đến trực tiếp đến quy định quyền kết hôn và cơ chế bảo đảm công nhận, thực thi quyền kết hôn của cá nhân.
Đánh giá: Dự thảo Luật Hộ tịch đã có những quy định tốt trong định hướng cải cách về thẩm quyền và thủ tục trong đăng ký kết hôn, giải quyết được những bất cập, hạn chế trong quy định của Luật HN-GĐ. Quy định về thẩm quyền đăng ký kết hôn trong Dự thảo Luật Hộ tịch (Điều 25) phù hợp với thực tiễn hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân hơn so với quy định hiện hành của Luật HN-GĐ (Điều 12). Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi quản lý Sổ Bộ hộ tịch hoặc nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ có thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn (Luật HN-GĐ chỉ quy định cơ quan có thẩm quyền là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ). Dự thảo Luật cũng quy định về thủ tục đăng ký kết hôn tại nơi cư trú, không phải nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch của bên nam, nữ, thì sau khi đăng ký kết hôn, Hộ tịch viên phải thông báo ngay bằng văn bản trong đó ghi đầy đủ những nội dung đã được đăng ký cho Hộ tịch viên nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch và cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử (khoản 5 Điều 26).
2.2. Về kết hôn có yếu tố nước ngoài (Điều 100 – Điều 103 Luật HN-GĐ năm 2000)
* Kết hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định của Luật HN-GĐ
Theo quy định tại khoản 14 Điều 8 và khoản 4 Điều 100 của Luật HN-GĐ, được xác định là kết hôn có yếu tố nước ngoài khi thuộc một trong các trường hợp sau: (1) Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; (2) Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; (3) Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài; (4) kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài.
Các quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài được tôn trọng và được bảo vệ phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Người nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có nghĩa vụ như công dân Việt Nam về kết hôn, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác. Nhà nước CHXHCN Việt Nam bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ kết hôn phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế (Điều 100 Luật HN-GĐ).
Về điều kiện kết hôn, trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn. Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn (Điều 103).
Về thẩm quyền kết hôn, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định của Luật HN-GĐ và các quy định khác của pháp luật Việt Nam. Việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân cấp xã nơi công dân Việt Nam cư trú.
* Tác động đến dự án Luật Hộ tịch
Thứ nhất, về cơ bản Luật HN-GĐ Việt Nam không có sự phân biệt đối xử trong quy định về kết hôn và đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, ngoại trừ có quy định khác về thẩm quyền đăng ký kết hôn giữa kết hôn trong nước và kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Đánh giá: Dự thảo Luật Hộ tịch đã có những quy định tốt trong bảo đảm nguyên tắc không phân biệt đối xử đã được quy định trong Luật HN-GĐ và trong định hướng cải cách về thẩm quyền, thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, giải quyết được những bất cập, hạn chế trong quy định của Luật HN-GĐ. Trên cơ sở hướng tới sự bình đẳng trong kết hôn và đăng ký kết hôn, Dự thảo Luật đã có quy định đột phá so với quy định của Luật HN-GĐ khi giao thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đăng ký thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú (nếu không có đăng ký thường trú) của công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài. Đồng thời, để tránh xáo trộn lớn trong công tác đăng ký hộ tịch, khắc phục những vướng mắc về chất lượng cán bộ hộ tịch cấp xã, dự thảo Luật cũng quy định về việc Ủy ban nhân dân cấp xã phải chuyển hồ sơ lên xin ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp huyện, sau khi có ý kiến bằng văn bản của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã mới tiến hành việc đăng ký kết hôn.
Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn kết hôn có yếu tố nước ngoài hiện nay còn nhiều diễn biến phức tạp, nhiều trường hợp kết hôn không đạt được mục đích hôn nhân, có ý kiến cho rằng Luật Hộ tịch cần quy định trong đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, các bên kết hôn phải có chứng nhận đã qua tập huấn tại các trung tâm hỗ trợ kết hôn có yếu tố nước ngoài hoặc phải có chứng nhận về sức khỏe tốt, chứng nhận về khả năng ngôn ngữ…
Đánh giá: dự thảo Luật Hộ tịch không quy định các thủ tục này mà thay vào đó quy định về các trường hợp từ chối đăng ký kết hôn là phù hợp (Điều 48 dự thảo Luật), vì việc bổ sung các điều kiện trong kết hôn dù trong kết hôn trong nước hay kết hôn có yếu tố nước ngoài thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật HN-GĐ và Luật HN-GĐ hiện hành không ràng buộc các điều kiện trên trong kết hôn. Trong trường hợp xuất phát từ thực tế cần thiết phải đưa thành điều kiện trong Luật, thì cần có sự sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện kết hôn trong Luật HN-GĐ.
2.3. Về nhận cha, mẹ, con (Điều 63 – Điều 65 Luật HN-GĐ năm 2000)
* Nhận cha, mẹ, con theo quy định của Luật HN-GĐ
Luật HN-GĐ quy định về nguyên tắc xác định cha, mẹ, con trong hai trường hợp xác định con chung của vợ chồng và xác định con ngoài giá thú. Về nhận cha, mẹ, con, Luật HN-GĐ quy định người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình. Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình. Con có quyền xin nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết. Con đã thành niên xin nhận cha, không đòi hỏi phải có sự đồng ý của mẹ; xin nhận mẹ, không đòi hỏi phải có sự đồng ý của cha.
* Tác động đến dự án Luật Hộ tịch
Luật HN-GĐ không quy định cụ thể việc nhận cha, mẹ, con ngoài giá thú được thực hiện theo thủ tục hành chính trong trường hợp tự nguyện nhận và không có tranh chấp.
Đánh giá: Dự thảo Luật Hộ tịch cần cân nhắc khi quy định đăng ký việc nhận cha, mẹ, con theo thủ tục đăng ký hộ tịch trong trường hợp các bên tự nguyện và không có tranh chấp (Điều 31, 32, 33, 52, 53 dự thảo Luật). Theo đó, trong trường hợp một người tự nguyện nhận cha, mẹ, con mà không có tranh chấp và có đủ các căn cứ được quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 53 dự thảo Luật thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch của người con hoặc nơi cư trú của người nhận hoặc được nhận là cha, mẹ, con sẽ thực hiện việc đăng ký nhận cha, mẹ, con.
Do quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con là quyền nhân thân của cá nhân không thể chuyển giao cho người khác, việc nhận một người là cha, mẹ, con trong mối quan hệ huyết thống phải có những căn cứ pháp lý xác thực họ là cha, mẹ, con của nhau. Pháp luật của nhiều nước trên thế giới thường quy định thẩm quyền trong việc nhận cha, mẹ, con thuộc về Tòa án, rất ít nước quy định thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước vì cơ quan này không phải là cơ quan tài phán, khó có thể tìm ra những căn cứ pháp lý xác thực về mối quan hệ huyết thống giữa các bên nhận cha, mẹ, con. Việc giao thẩm quyền cho Ủy ban nhân dân cấp xã e rằng có thể phát sinh những trường hợp nhận cha, mẹ, con trục lợi hoặc trá hình không đúng với mục đích nhận cha, mẹ, con, hoặc không có sự áp dụng pháp luật thống nhất trong thi hành pháp luật về vấn đề này.
Theo quan điểm của chúng tôi, trong bối cảnh Luật Hôn nhân và gia đình không quy định cụ thể thẩm quyền giải quyết các việc nhận cha, mẹ, con, Luật Hộ tịch cần có sự đột phá trong quy định thẩm quyền về vấn đề này theo hướng, Tòa án là cơ quan có thảm quyền về nhận cha, mẹ, con, cơ quan đăng ký hộ tịch chỉ ghi chú việc nhận cha, mẹ, con vào Sổ bộ hộ tịch và Sổ hộ tịch cá nhân căn cứ vào quyết định của Tòa án về nhận cha, mẹ, con.
2.4. Về giám hộ giữa các thành viên trong gia đình (Điều 63 – Điều 65 Luật HN-GĐ năm 2000)
* Giám hộ giữa các thành viên theo quy định của Luật HN-GĐ và Bộ luật Dân sự
Luật HN-GĐ quy định khi gia đình có người cần được giám hộ thì việc giám hộ được thực hiện theo các quy định về giám hộ của Bộ luật Dân sự và của Luật HN-GĐ.
Về giám hộ của cha, mẹ đối với con: Khi cha mẹ cùng giám hộ cho con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì họ phải thỏa thuận với nhau về việc đại diện cho con trong thực hiện các giao dịch vì lợi ích của con (Điều 80). Trong trường hợp cha mẹ không đủ điều kiện trực tiếp thực hiện các quyền, nghĩa vụ đối với con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì cha mẹ có thể cử người khác giám hộ; cha mẹ và người giám hộ thỏa thuận về việc người giám hộ thực hiện một phần hoặc toàn bộ việc giám hộ (Điều 81).
Về giám hộ giữa anh, chị, em ruột: anh, chị, em đã thành niên có năng lực hành vi dân sự thỏa thuận cử một người trong số họ có đủ điều kiện để làm người giám hộ cho anh, chị, em ruột cần được giám hộ. Khi quyết định các vấn đề về nhân thân và tài sản của em chưa thành niên, thì anh chị là người giám hộ phải tham khảo ý kiến của những người thân thích và ý kiến của em, nếu em từ đủ 9 tuổi trở lên (Điều 83).
Về giám hộ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu: trong trường hợp cháu cần được giám hộ mà ông bà nội, ngoại có đủ điều kiện làm người giám hộ thì những người này thỏa thuận cử một bên làm người giám hộ. Cháu có đủ điều kiện làm người giám hộ thì phải giám hộ cho ông bà nội, ông bà ngoại nếu ông bà không có con phụng dưỡng (Điều 84).
Theo quy định của Bộ luật Dân sự, thẩm quyền về đăng ký giám hộ cử thuộc về Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ (Điều 63 Bộ luật Dân sự). Đối với quan hệ giám hộ có yếu tố nước ngoài, thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trừ trường hợp việc giám hộ giữa công dân Việt Nam ở khu vực biên giới với công dân nước láng giềng thì thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã ở khu vực biên giới nơi cư trú của công dân Việt Nam (khoản 1 Điều 102 Luật HN-GĐ năm 2000). Việc cử người giám hộ phải lập thành văn bản, trong đó có ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền, nghĩa vụ của người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ, văn bản thỏa thuận phải có xác nhận đồng ý làm giám hộ của người được cử làm giám hộ (64 Bộ luật Dân sự).
Ngoài ra, việc giám hộ phải được giám sát. Người giám sát do những người thân thích của người được giám hộ cử ra, trong trường hợp không có người thân thích hoặc những người thân thích không cử được người giám sát việc giám hộ thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người giám hộ sẽ cử người giám sát (Điều 59 Bộ luật Dân sự).
* Tác động đến dự án Luật Hộ tịch
Thứ nhất, về thẩm quyền đăng ký giám hộ
Đánh giá: Dự thảo Luật Hộ tịch đã có những quy định tốt trong định hướng cải cách về thẩm quyền và thủ tục trong đăng ký giám hộ, giải quyết được những bất cập, hạn chế trong quy định của Luật HN-GĐ và Bộ luật Dân sự. Quy định về thẩm quyền đăng ký giám hộ trong Dự thảo Luật Hộ tịch (Điều 27, Điều 49) phù hợp với thực tiễn hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân hơn so với quy định hiện hành Điều 63 Bộ luật Dân sự Điều 102 Luật HN-GĐ.
Đối với giám hộ giữa công dân Việt Nam với nhau, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi quản lý Sổ Bộ hộ tịch hoặc nơi cư trú của người được giám hộ có thẩm quyền giải quyết việc đăng ký giám hộ (Bộ luật Dân sự chỉ quy định cơ quan có thẩm quyền là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ). Dự thảo Luật cũng quy định về thủ tục đăng ký giám hộ tại nơi cư trú, không phải nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch của người được giám hộ, thì sau khi đăng ký giám hộ, Hộ tịch viên phải thông báo ngay bằng văn bản trong đó ghi đầy đủ những nội dung đã được đăng ký cho Hộ tịch viên nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch và cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử (khoản 4 Điều 28).
Đối với giám hộ có yếu tố nước ngoài, Dự thảo Luật đã có sự đột phá so với quy định của Luật HN-GĐ khi quy định việc đăng ký giám hộ có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch của người được giám hộ, có thẩm quyền đăng ký giám hộ giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài cùng cư trú tại Việt Nam (Điều 49).
Thứ hai, về thỏa thuận giữa những người thuộc diện giám hộ đương nhiên của người được giám hộ và việc cử người giám hộ
Đánh giá: Dự thảo Luật Hộ tịch đã có quy định tốt phù hợp với quy định của Luật HN-GĐ khi quy định hồ sơ đăng ký giám hộ phải có văn bản thỏa thuận về việc cử người giám hộ đương nhiên đối với trường hợp có nhiều người đủ điều kiện làm người giám hộ đương nhiên theo quy định của Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, dự thảo Luật cần bổ sung về việc thỏa thuận cử người giám hộ đương nhiên giữa các thành viên trong gia đình (nếu có) được quy định trong Luật HN-GĐ, vì việc thỏa thuận cử người giám hộ giữa cha, mẹ, con, giữa anh, chị, em ruột và giữa ông bà nội, ngoại không được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự.
Về giám hộ cử, dự thảo Luật cần bổ sung vào hồ sơ đăng ký giám hộ văn bản thỏa thuận của người tự nguyện làm người giám hộ (nếu có), bên cạnh yêu cầu về văn bản cử người giám hộ của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ (Điều 28 và Điều 50).
Thứ ba, về giám sát trong giám hộ, Bộ luật dân sự quy định việc giám hộ phải được giám sát.
Đánh giá: Dự thảo Luật Hộ tịch chưa có quy định về thủ tục cử người giám sát theo thỏa thuận của những người thân thích của người được giám hộ hoặc của Ủy ban nhân dân nơi cư trú của người giám hộ. Đây là nội dung quan trọng đề nghị bổ sung thủ tục này vào trong dự thảo Luật.
2.5. Về tính mở trong quy định của dự thảo Luật Hộ tịch
Cùng với việc thực hiện dự án Luật Hộ tịch, các luật nội dung của Luật này như Bộ luật Dân sự, Luật HN-GĐ cũng đang trong quá trình được sửa đổi, bổ sung, trong có một số quy định liên quan đến hộ tịch và đăng ký hộ tịch.
Ví dụ: tôn trọng và thực hiện quyền định đoạt của các bên kết hôn về tài sản, quy định các bên kết hôn có quyền thỏa thuận về tài sản trong hôn nhân bằng việc lập hợp đồng trước khi kết hôn đã và đang được nghiên cứu trong sửa đổi, bổ sung Luật HN-GĐ.
Để bảo đảm công khai, minh bạch, sự ổn định về tài sản trong hôn nhân, pháp luật nhiều nước quy định các thỏa thuận về tài sản trong hôn nhân được lập trước khi kết hôn phải dưới hình thức văn bản, được công chứng và phải được ghi chú tại thời điểm đăng ký kết hôn vào trong Sổ Bộ hộ tịch, Sổ hộ tịch cá nhân hoặc Giấy chứng nhận kết hôn. Trường hợp thỏa thuận tài sản trong hôn nhân không được ghi chú vào trong Sổ Bộ hộ tịch, Sổ hộ tịch cá nhân hoặc Giấy chứng nhận kết hôn thì coi như các bên kết hôn đã lựa chọn chế độ tài sản theo quy định của pháp luật…
Đánh giá: Dự thảo Luật Hộ tịch còn thiếu các quy định có tính mở để đảm bảo tương thích với quy định của Luật HN-GĐ, cũng như các luật nội dung có liên quan khác trong trường hợp các luật này được sửa đổi, bổ sung.

[1] Thông tin dựa trên dự thảo Luật Hộ tịch được Chính phủ trình UBTVQH
Nguồn: TỌA ĐÀM CHUYÊN GIA VỀ LỒNG GHÉP VẤN ĐỀ GIỚI TRONG DỰ ÁN LUẬT HỘ TỊCH – ỦY BAN CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI CỦA QUỐC HỘI. Hà Nội, ngày 07/9/2012