Thứ Năm, 10 tháng 3, 2011

SỞ HỮU NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Ở nước ta hiện nay sở hữu nhà nước được hiểu là sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện. Sở hữu nhà nước là trình độ thấp hơn của sở hữu toàn dân. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH và trong giai đoạn XHCN chỉ mới có sở hữu nhà nước. Nhà nước đại diện cho toàn dân sở hữu những tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước…, của toàn dân, của toàn xã hội. Nhà nước không những sở hữu mà còn nhân danh toàn dân, toàn xã hội tổ chức quản lý, sử dụng và phân phối những sản phẩm được tạo ra từ những tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước…
1. Sở hữu Nhà nước ở nước ta hiện nay
Kinh tế nhà nước dựa trên sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất, về vốn…Ở nước ta hiện nay sở hữu nhà nước được hiểu là sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện. Sở hữu nhà nước là trình độ thấp hơn của sở hữu toàn dân. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH và trong giai đoạn XHCN chỉ mới có sở hữu nhà nước. Nhà nước đại diện cho toàn dân sở hữu những tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước…, của toàn dân, của toàn xã hội. Nhà nước không những sở hữu mà còn nhân danh toàn dân, toàn xã hội tổ chức quản lý, sử dụng và phân phối những sản phẩm được tạo ra từ những tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước… Nhưng muốn thực hiện được điều đó phải thực hiện được lợi ích kinh tế của sở hữu nhà nước. Nếu không có lợi ích kinh tế thì sở hữu nhà nước chỉ là danh nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải có cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu của Nhà nước đối với những tài nguyên, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước… của chung, của toàn dân, của toàn xã hội với quyền sử dụng chúng của các doanh nghiệp được giao quyền sử dụng và việc phân phối sản phẩm, giá trị mới được tạo ra nhờ những tài nguyên, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước… thuộc sở hữu nhà nước giao cho các doanh nghiệp sử dụng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cơ chế ấy phải chăng là tỷ lệ phân chia sản phẩm, giá trị mới đó giữa Nhà nước và doanh nghiệp thông qua việc doanh nghiệp nộp thuế cho Nhà nước. Chỉ có thu được một phần lợi nhuận dưới hình thức thuế theo một tỷ lệ thích hợp từ các doanh nghiệp được giao quyền sử dụng những tài sản, vốn… chung của toàn xã hội, thì mới thực hiện được lợi ích kinh tế của sở hữu nhà nước. Đồng thời, doanh nghiệp mới có động lực để phấn đấu sản xuất – kinh doanh có hiệu quả nhằm thu được lợi nhuận cao hơn phần thuế phải nộp cho Nhà nước, thì doanh nghiệp mới có thu nhập. Phần lợi nhuận cao hơn ấy càng lớn thì thu nhập của doanh nghiệp càng cao.

2. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Đảng ta chủ trương phát triển và nâng cao hiệu quả của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.Tính chất nhiều thành phần kinh tế là nét đặc trưng có tính quy luật của nền kinh tế quá độ lên CNXH ở nước ta. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ luôn luôn vận động, phát triển trong mối quan hệ, tác động qua lại, đan xen trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, trên cơ sở vừa hợp tác, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và bình đẳng trước pháp luật.
Trong quá trình vận động, phát triển các thành phần kinh tế phải được cải biến dựa vào những tiền đề khách quan:Thứ nhất, xuất phát từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và yêu cầu xã hội hoá sản xuất trên thực tế.Thứ hai, xuất phát từ đặc điểm, tính chất của từng ngành nghề mà xác định tỷ trọng, quy mô, cơ cấu các thành phần kinh tế cho phù hợp.Thứ ba, xuất phát từ khả năng tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước XHCN và đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế.
Vấn đề không phải là xoá bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế này hay thành phần kinh tế khác, mà điều quan trọng là phải nắm vững bản chất của từng thành phần và sử dụng chúng đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Mỗi thành phần kinh tế có bản chất và những quy luật kinh tế hoạt động riêng, dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất, và có khả năng tái sản xuất một cách tương đối độc lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng. Khả năng tái sản xuất là điều kiện tồn tại và vận động của mỗi thành phần kinh tế. Chính xu hướng mở rộng hay thu hẹp khả năng tái sản xuất chỉ rõ vai trò và triển vọng của mỗi thành phần kinh tế trong nền sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, các thành phần kinh tế không tồn tại một cách biệt lập, mà có mối quan hệ và tác động qua lại, đan xen. Để đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, trong quá trình vận động vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế nhà nước phải tự vươn lên, làm sao để cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng cho chế độ XHCN.
Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các sở hữu nhà nước như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước, lực lượng dự trữ, kể cả một phần vốn của Nhà nước đưa vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nghĩa là, hệ thống kinh tế nhà nước gồm hai bộ phận cấu thành: doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp (đất đai, tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước, các quỹ quốc gia…). Thành phần kinh tế không chỉ bao hàm giác độ sở hữu mà còn bao hàm sức mạnh tổ chức, sức mạnh hợp tác của các tổ chức kinh tế hoạt động dựa trên một chế độ sở hữu nhất định. Thành phần kinh tế nhà nước không chỉ bao hàm doanh nghiệp nhà nước, mà còn bao hàm sức mạnh kinh tế đứng đằng sau các chính sách và hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước, bao hàm khả năng tổ chức và hoạch định chính sách đúng đắn của Nhà nước, bao hàm sự gắn kết hợp lý của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhà nước, luật pháp và hiệu lực quản lý của nhà nước. Như vậy, thành phần kinh tế nhà nước được hiểu tổng hợp hơn so với trước đây. Hình thức tổ chức kinh doanh là sự tập hợp tư liệu sản xuất dưới một hình thái nào đó được pháp luật thừa nhận để trực tiếp tiến hành sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, đó là các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Một doanh nghiệp có thể dựa trên một hoặc nhiều hình thức sở hữu, là công cụ trong tay thành phần kinh tế đầu tư vốn vào doanh nghiệp để phục vụ cho mục tiêu của chủ đầu tư. Thông qua các doanh nghiệp, thông qua các tổ chức đại diện cho chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế.Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có hai loại: loại hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, và loại hoạt động công ích không vì mục tiêu lợi nhuận. Ngoài ra, còn có loại nằm giữa hai loại trên như những tổ chức kinh tế đang quản lý, duy tu, bảo dưỡng cơ sở kinh tế hạ tầng (cầu, đường, sân bay, bến cảng…).
Loại này có xu hướng chuyển hoá từng phần sang loại trên.Kinh tế nhà nước cần và có thể giữ vai trò chủ đạo vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, kinh tế nhà nước dựa trên chế độ công hữu (sở hữu nhà nước) về tư liệu sản xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. Ở đây, cần phân biệt hình thức sở hữu và chủ sở hữu. Nhà nước- đại diện cho toàn dân – là chủ sở hữu công cộng của toàn dân.
Thứ hai, kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống của nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định.
Thứ ba, kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế; là lựclượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn giúp đỡ và liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Thứ tư, kinh tế nhà nước có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế, mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, kinh tế nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa hoc – công nghệ hiện đại, tiên tiến; do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp phần lớn cho ngân sách nhà nước, và tự tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất mở rộng.
Thứ sáu, kinh tế nhà nước là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới; là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sống còn, nhưng đòi hỏi vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn lại chậm…
Đại hội X của Đảng khẳng định lại vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: “ Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(1).
Đồng thời với khẳng định vai trò to lớn của kinh tế nhà nước, Đại hội cũng tuyên bố rõ ràng rằng: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”(2) Đảng cam kết chỉ đạo Nhà nước thi hành các chính sách kinh tế không phân biệt đối xử với các hình thức sở hữu. Đây là một bước tiến mới về quan điểm kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta. Hơn nữa, Đảng chủ trương đưa hệ thống doanh nghiệp nhà nước ra hoạt động trong môi trường công khai, minh bạch và cạnh tranh thực sự, xoá bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, buộc doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động hiệu quả mới được tồn tại.
Đảng ta đặt kinh tế nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng trong môi trường thị trường đồng bộ, cạnh tranh đầy đủ và hội nhập kinh tế quốc tế. Có nghĩa là kinh tế nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng phải thích nghi và buộc phải hoạt động trong môi trường KTTT đầy đủ, chấp nhận luật chơi của các tổ chức kinh tế quốc tế, chấp nhận cạnh tranh trong điều kiện bảo hộ của Nhà nước giảm đến mức tối thiểu: "Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. Thu hẹp lĩnh vực nhà nước độc quyền kinh doanh, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp… Phát triển vững chắc thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh…Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất… Phát triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế…Phát triển thị trường khoa học công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học công nghệ trở thành hàng hoá"(3) và “Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ đất nước làm mục tiêu cao nhất”(4). Quan điểm chỉ đạo kiên quyết này đặt ra cho quản lý của nhà nước và doanh nghiệp những yêu cầu mới: một là, Nhà nước phải chủ động thay đổi những phương thức hành động không phù hợp với KTTT và cam kết quốc tế bằng các phương thức phù hợp và có hiệu quả hơn.
Để làm được như vậy, Nhà nước phải có tiềm lực tài chính lớn, có nghĩa là vai trò của kinh tế nhà nước không giảm đi, ngược lại có thể tăng lên; hai là, doanh nghiệp nhà nước phải được cải tổ nhanh và chuyển sang các hình thức hoạt động hiệu quả để có thể tồn tại và đem lại cho nhà nước một công cụ định hướng, điều tiết tốt. Để làm được như vậy, Đảng ta chỉ rõ: “Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích… Thúc đẩy hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực…”(5); ba là, bộ máy nhà nước phải thích ứng với vai trò mới theo hướng:- Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng vĩ mô như định hướng bằng các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, cơ chế, chính sách có chất lượng trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường cho các chủ thể phát huy tối đa các nguồn lực; hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội; bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối vĩ mô…
- Nhà nước tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế;
- Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp;
- Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước ra khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ “chế độ chủ quản”;
- Tách hệ thống hành chính ra khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp;
Tóm lại, quan điểm của Đảng ta về kinh tế nhà nước vừa là sự kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa phát triển lên một mức cao hơn và giải thích rõ hơn các nội dung liên quan đến kinh tế nhà nước như mối quan hệ của nó với thành phần kinh tế khác, cấu thành của kinh tế nhà nước, vai trò và nội dung chủ đạo của kinh tế nhà nước, phương thức hoạt động của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường hội nhập và quan hệ giữa nhà nước kinh tế và nhà nước chính trị… Những điểm phát triển này tạo cơ sở lý luận và nhận thức đúng đắn cho các đảng viên, nhất là các đảng viên giữ vai trò lãnh đạo, quản lý trong thành phần kinh tế nhà nước. Song, có thể nhận thấy, thực tiễn vận hành kinh tế nhà nước sẽ còn đặt ra nhiều yêu cầu đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn chỉnh về lý luận.
Để thành phần kinh tế nhà nước có thể thực hiện vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác, cần áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó có một số biện pháp chủ yếu sau đây:
Một là, tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu; những cơ sở sản xut thương mại, dịch vụ quan trọng; một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đến quốc phòng, an ninh… Nhà nước chỉ nên nắm một số không nhiều "những đài chỉ huy" trong nền kinh tế, tức là những vị trí kinh tế then chốt, yết hầu, thông qua đó mà điều tiết, chi phối, hướng dẫn hoạt động của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.
Hai là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu và sử dụng tư liệu sản xuất của toàn dân bằng cách lựa chọn các hình thức kinh tế phù hợp.
Ba là, đổi mới, dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học – công nghệ hiện đại và phát huy ưu thế về kỹ thuật tiến bộ nhất; liên kết, liên doanh với các thành phần kinh tế khác nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế – xã hội.
Bốn là, thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước, trong đó cổ phần thuộc sở hữu nhà nước là cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt. Để được cổ phần chi phối, Nhà nước phải nắm trên nửa số cổ phần của doanh nghiệp, hoặc cổ phần của Nhà nước ít nhất cũng phải gấp đôi số cổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong doanh nghiệp. Cổ phần đặc biệt là cổ phần có quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của doanh nghiệp theo thoả thuận trong Điều lệ doanh nghiệp. Để thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp, Nhà nước có thể bán cổ phần cho cán bộ, công nhân viên chức trong doanh nghiệp; có thể vừa bán cho lao động trong doanh nghiệp vừa bán cho tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp; cũng có thể giữ nguyên tài sản của Nhà nước, chỉ phát hành một số cổ phiếu để tăng vốn cho cơ sở sản xuất đã có hay cho phân xưởng mới thành lập; hoặc cũng có thể gọi cổ phần ngay từ đầu khi mới thành lập.
Năm là, tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với yêu cầu sản xuất – kinh doanh trong điều kiện mới. Phương hướng chủ yếu hiện nay là thành lập một số tổng công ty, tập đoàn kinh doanh lớn có uy tín, có tầm vóc quốc gia và quốc tế, tạo thế và lực để phát triển, đủ sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong quan hệ kinh tế với nước ngoài.Đối với những doanh nghiệp xét thấy không cần thiết hoặc thua lỗ kéo dài, không có khả năng vươn lên, thì chuyển sang hình thức sở hữu khác, cho thuê, bán khoán hoặc giải thể. Ở đây, cần chống hai khuynh hướng sai lầm: hoặc coi nhẹ doanh nghiệp nhà nước, muốn tư nhân hoá tràn lan; hoặc bảo thủ, muốn duy trì toàn bộ doanh nghiệp nhà nước, không muốn tổ chức sắp xếp lại cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới.
Sáu là, để nâng cao tính hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước xứng đáng là bộ khung trong hệ thống các doanh nghiệp của toàn bộ nền kinh tế, cần phải nâng cao tính hạch toán, tính chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của giám đốc và tập thể người lao động. Để cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cần phải đánh giá toàn diện khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Đối với những trường hợp lợi nhuận cao là do sự độc quyền của doanh nghiệp, do chính sách kinh tế ưu đãi của Nhà nước, thì dứt khoát phải có sự điều tiết thích hợp.Nhìn một cách tổng quát, bảo toàn vốn và có lãi là nguyên tắc quan trọng nhất và là mục tiêu cơ bản nhất để quản lý doanh nghiệp nhà nước, tạo cơ sở vững chắc cho Nhà nước thực hiện đúng các định hướng vĩ mô. Vai trò then chốt của doanh nghiệp nhà nước được thực hiện thông qua các phương pháp, công cụ kinh tế nhằm bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước phải phù hợp với các nhiệm vụ phát triển kinh tế của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước là công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô. Lĩnh vực quan trọng mà doanh nghiệp nhà nước phải giữ vai trò nòng cốt là ổn định thị trường, thực hiện nghiêm túc các mục tiêu chính trị, xã hội./.
—————-
(1), (2), (3), (4), (5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.83, 83, 80-82, 113-114, 85
Nguồn: TẠP CHÍ TUYÊN GIÁO ĐIỆN TỬ

KHÔNG NÊN LUẬT HÓA THỜI GIAN SỞ HỮU NHÀ CHUNG CƯ

Ở Việt Nam, đất thuộc sở hữu nhà nước và chỉ được giao cho người dân để sử dụng; bởi vậy, quyền sở hữu đối với các tài sản gắn liền với đất, kể cả nhà chung cư, hoàn toàn lệ thuộc vào sự tồn tại của quyền sử dụng đất.
Sở hữu có thời hạn đối với nhà chung cư dự kiến sẽ là giải pháp được bộ Xây dựng đề xuất trong khuôn khổ cải cách hệ thống luật pháp về nhà ở. Những người ủng hộ giải pháp này dựa chủ yếu vào hai lý lẽ: một là ở các nước tiên tiến, luật pháp giới hạn quyền sở hữu đối với nhà chung cư trong phạm vi tuổi thọ của toàn bộ toà nhà; hai là việc giới hạn thời gian quyền sở hữu sẽ có tác dụng tích cực trong việc hạn chế đầu cơ: được găm giữ càng lâu thì tài sản càng xuống giá, do quyền sở hữu bị “khấu hao”.
Thực ra sở hữu có thời hạn ở các nước tiên tiến không phải là một chế định của luật, mà là sản phẩm của quan hệ kết ước trong cuộc sống dân sự. Sở hữu tư nhân, về bản chất, là sở hữu vô thời hạn. Trong khuôn khổ thực hiện quyền sở hữu của mình theo nguyên tắc chủ thể được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, có những chủ sở hữu chủ động chuyển giao có thời hạn quyền sở hữu đó bằng một thoả thuận rành mạch. Khi đó, người nhận chuyển giao có đầy đủ các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản trong thời hạn thoả thuận, kể cả quyền định đoạt, để lại cho người thừa kế…
Sở hữu chung cư ở các nước rất đa dạng về đối tượng. Đó có thể là căn hộ chung cư được nhìn nhận như một thực thể pháp lý phức hợp, bao gồm các phần sở hữu riêng và một tỷ lệ phần quyền sở hữu đối với những gì gọi là của chung như đất, công trình hạ tầng, thiết bị tiện ích… Có trường hợp căn hộ được hiểu là một phần không gian nơi nhà chung cư được định vị: đối với phần không gian đó, chủ sở hữu có quyền xây dựng căn hộ theo các quy cách được xác định. Cũng có trường hợp căn hộ được hình dung theo nghĩa hẹp: đó là căn hộ vật chất, được mô tả theo cấu trúc hiện hữu.
Chỉ trong trường hợp thứ ba này, sở hữu căn hộ mới được xác định một cách bắt buộc là sở hữu có thời hạn; nhưng đó là do bản thân tài sản, nghĩa là một phần của toà nhà, có tuổi thọ được giới hạn theo giới hạn về tuổi thọ của toà nhà được xác định theo pháp luật xây dựng. Có đối tượng là một vật chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian, quyền sở hữu tất nhiên cũng chỉ có thể được duy trì đến hết khoảng thời gian đó.

Ở Việt Nam, đất thuộc sở hữu nhà nước và chỉ được giao cho người dân để sử dụng; bởi vậy, quyền sở hữu đối với các tài sản gắn liền với đất, kể cả nhà chung cư, hoàn toàn lệ thuộc vào sự tồn tại của quyền sử dụng đất.
Giả sử đất được giao có thời hạn hoặc được cho thuê, thì nhà chung cư, dù là một tập hợp phần chung và phần riêng, là một phần không gian được xây dựng hay là một phần vật kiến trúc cụ thể, chỉ có thể tồn tại tối đa đến hết thời hạn giao hoặc cho thuê đất. Nhưng nếu đất được giao để sử dụng ổn định lâu dài, thì chắc chắn quyền xây dựng của người sử dụng đất cũng tồn tại ổn định và lâu dài. Nếu căn hộ chung cư được hiểu là một phần không gian nơi toạ lạc nhà chung cư, thì quyền sở hữu đối với căn hộ xác lập cho người có quyền sử dụng đất phải là loại quyền không bị giới hạn trong thời gian. Tất nhiên, không ai cấm người có quyền sử dụng đất thoả thuận về việc chuyển nhượng quyền sở hữu đối với căn hộ cho người khác trong một thời hạn. Nhưng nếu không có thoả thuận gì cụ thể, thì một vụ chuyển nhượng căn hộ chung cư sẽ có tác dụng trao cho người nhận chuyển nhượng quyền sở hữu không thời hạn đối với căn hộ: một khi toà nhà chung cư hết tuổi thọ theo quy định của pháp luật và phải bị phá dỡ, thì, về mặt lý thuyết, chủ sở hữu căn hộ có quyền xây dựng căn hộ mới trong phần không gian thuộc quyền sở hữu của mình. Trên thực tế, chủ sở hữu thực hiện quyền đó dưới hình thức tham gia vào dự án đầu tư xây dựng toà nhà chung cư mới.
Dường như khi xây dựng phương án cải cách chế độ sở hữu nhà chung cư, các tác giả ở bộ Xây dựng chỉ hình dung đối tượng của quyền sở hữu căn hộ chung cư theo nghĩa rất hẹp, là một phần của một vật kiến trúc cụ thể gọi là toà nhà chung cư; họ không nghĩ đến các trường hợp căn hộ chung cư có “chứa đựng” một phần quyền sử dụng đất hoặc được đồng hoá với một phần không gian được phép xây dựng. Nhưng dù căn hộ chung cư chỉ được coi là một vật cụ thể, thì việc dùng luật để giới hạn quyền sở hữu nhà chung cư trong thời gian cũng là việc làm không nên. Đáng lý ra, phải nhìn nhận rằng sự tồn tại của quyền sở hữu thoạt tiên không bị đóng khung trong một khoảng thời gian; chẳng qua do ở đây, đối tượng của quyền sở hữu là một vật có tuổi thọ giới hạn mà quyền sở hữu trở nên có thời hạn.
Nguồn: BÁO SÀI GÒN TIẾP THỊ ĐIỆN TỬ

CÓ NÊN GIỚI HẠN THỜI GIAN QUYỀN SỞ HỮU CĂN HỘ CHUNG CƯ?

Khi một người mất đi mà không để lại cho con một cái nhà thì thật khó nhắm mắt, và sẽ khó nhắm mắt hơn nếu đó lại chỉ là một khoảng không gian sắp hết thời hiệu sử dụng.
Trước hết cần khẳng định thời gian sở hữu chủ một căn hộ chung cư và thời gian tồn tại của một chung cư là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Một đằng liên quan đến “quyền” (quyền định đoạt, quyền sử dụng, quyền mua bán trao đổi, thừa kế), và một đằng liên quan đến khía cạnh kỹ thuật. Quyền sở hữu đất và các công trình xây dựng trên đất là quyền lâu dài (có thể nói là vĩnh viễn) của công dân được luật pháp bảo hộ, kể cả khi công trình đó vì lý do gì đó không còn tồn tại nữa.
Không có công trình xây dựng nào tồn tại vĩnh viễn, mà đều có tuổi thọ nhất định. Tuổi thọ dài hay ngắn của một chung cư phụ thuộc vào địa chất công trình, vật liệu xây dựng, trình độ thiết kế và thi công. Chính vì điều này mà ở các nước, các công trình xây dựng có qui mô nào cũng có lí lịch theo dõi riêng, cùng một lúc được lưu giữ ở vài ba nơi (chủ đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước, người sử dụng). Tuổi thọ công trình được một cơ quan kiểm định độc lập đánh giá và cứ sau một thời gian nhất định (5 hoặc 10 năm) được kiểm định lại.
Ngoài việc kiểm định theo định kỳ, khi có những sự cố bất thường như động đất, lũ lụt, hỏa hoạn sẽ có những kiểm định bổ sung và khi hết thời gian sử dụng thì người sử dụng nhận được một giấy báo cho biết tuổi thọ công trình đã hết, không còn an toàn nữa. Dựa trên cơ sở này mà cơ quan quản lý tiến hành các thủ tục cần thiết trong khuôn khổ luật định để xử lý và xây dựng các phương án tiếp theo, như đập đi xây mới hay chuyển mục đích sử dụng đất sang việc khác. Tuy nhiên để thực hiện điều này thì phải có những tổ chức kiểm định có uy tín và họ có trách nhiệm theo dõi lâu dài. Ở các nước như Hàn Quốc, Singpore, Mỹ, Pháp, Đức có khá nhiều tổ chức kiểm định chất lượng quốc tế như thế. Nhưng khi công trình không tồn tại nữa do hư hỏng, động đất tàn phá thì quyền sở hữu của họ vẫn còn.

Ở hầu hết các nước, đất đai là sở hữu của tư nhân, do vậy khi một người dân mua một căn hộ chung cư thì đồng nghĩa với việc họ được sở hữu không chỉ căn hộ mà còn một phần diện tích đất trong tổng diện tích toàn khuôn viên (sân, công viên, diện tích công trình phụ kèm theo) tính theo tỷ lệ. Mảnh đất mà họ sở hữu chỉ vài mét vuông, nhưng đấy chính là cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của họ. Khi chung cư hết thời hạn sử dụng kỹ thuật thì họ vẫn có quyền tham gia cùng mọi người khác định đoạt miếng đất đó trong việc xây mới, bán đi hay làm vào mục đích khác, cố nhiên họ có quyền bán, sang nhượng cái quyền đó cho người khác. Trong hợp đồng mua bán căn hộ còn có những điều khoản đảm bảo quyền lợi mà họ (con cháu họ) sẽ tiếp tục được hưởng, hay được chia sẻ một phần sau khi chung cư phải đập đi, chẳng hạn cam kết được ưu đãi sau khi xây chung cư mới. Xin lưu ý là sau 50,70, 100 năm thì giá trị miếng đất đã rất khác, nhất là ở những vị trí tốt, giá trị gia tăng lên hàng chục thậm chí là hàng trăm lần.
Trong khi đó ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện là nhà nước, do vậy nếu sau 50 năm hạn định, chung cư bị đập đi thì đất trả lại cho nhà đầu tư hay nhà nước thu hồi. Nhà đầu tư lại tiếp tục một vòng quay khai thác mới trong 50 năm, như thế những người giàu lại tiếp tục giàu lên, còn nhà nghèo lại tiếp tục một vòng đời tần tảo mới, bởi giá trị tích lũy ca thế hệ trước sau 50 năm trở về không (!). Đây là điều hoàn toàn vô lý về giá trị tài sản thừa kế không phải chỉ ở phương Đông mà ở phương Tây cũng vậy, điểu này tất nhiên là đặc biệt hơn ở châu Á, bởi nhà ở châu Á không đơn giản chỉ là chỗ chui ra chui vào mà còn chứa đựng những giá trị tinh thần rất lớn lao. Khi một người mất đi mà không để lại cho con một cái nhà thì thật khó nhắm mắt, và sẽ khó nhắm mắt hơn nếu đó lại chỉ là một khoảng không gian sắp hết thời hiệu sử dụng.
Tác giả bài này có trao đổi trực tiếp với GS. Chu Trấn Thành, viện trưởng Viện nghiên cứu chất lượng sống đô thị của thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc), ông cho hay là vào những năm 1990, Trung Quốc có đưa ra chính sách người dân chỉ được sở hữu một căn hộ chung cư trong thời gian 50 năm với mục đích tạo thuận lợi cho việc thu hồi, xây dựng mới. Cơ sở của chính sách này là ở Trung Quốc đất đai là sở hữu toàn dân (giống như ở Việt Nam), khi cần xây dựng công trình công cộng thì chính phủ chỉ phải đền bù nhà, còn đất là thu hồi trắng, nhưng ngay thời điểm đó đã gặp phải phản ứng gay gắt của người dân. Sau hơn 20 năm đã có những bất ổn nảy sinh trong chính sách này, do vậy chính phủ Trung Quốc đang bàn thảo chính sách gia hạn thời hạn sử dụng thêm 20 năm hoặc nhiều hơn nữa tùy thuộc vào chất lượng của công trình, trong trường hợp cần lấy đất thỉ phải đền bù theo giá thị trường cả nhà lẫn đất. Nếu Trung Quốc thay đổi quan niệm chuyển đất đai từ sở hữu toàn dân sang sở hữu tư nhân thì sẽ có rất nhiều chính sách liên quan đến nhà ở bị bãi bỏ.
Bất động sản là một lĩnh vực rất nhạy cảm và phức tạp, do vậy cần có sự thận trong trong việc ban hành chính sách, nếu vội vàng thì việc sửa sai không dễ dàng và hậu quả để lại cũng không mấy dễ chịu.
Nguồn: BÁO SÀI GÒN TIẾP THỊ ĐIỆN TỬ

Thứ Hai, 7 tháng 3, 2011

KINH DOANH BẰNG “QUAN HỆ” HAY BẰNG PHÁP LUẬT?

“Quan hệ”, hiểu theo nghĩa trong dấu ngoặc kép như “lót tay”, “đi đêm”, “bôi trơn”… để phục vụ cho việc kinh doanh đang trở thành một hiện tượng phổ biến ở Việt Nam. Điều này phổ biến đến mức trong không ít trường hợp “quan hệ” mới đóng vai trò yếu tố quyết định, còn pháp luật chỉ mang tính hình thức, thứ yếu. Vấn đề này nên được nhìn nhận như thế nào?
Từ “bị bắt buộc” đến tự nguyện!
Theo luật sư Trương Trọng Nghĩa, đại biểu HĐND TPHCM, “quan hệ” ở đây thực chất là một dạng tham nhũng giữa một bên là doanh nghiệp có nhu cầu xin xỏ và đưa lợi ích, còn bên kia-cán bộ công chức có quyền giải quyết và nhận lợi ích. Ông cho rằng 20 năm trước tham nhũng kiểu như trên hầu như không có hoặc rất hiếm. Lúc ấy quan chức chưa biết ra giá, họ chỉ nhận quà cáp lặt vặt và không gắn với quyền lực.
Ngược lại, bây giờ “quan chức biết ra giá, thậm chí tiền chung chi bằng đô la mới chịu lấy”, ông Nghĩa nhận xét. Để việc kinh doanh suôn sẻ, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình nhiều mối “quan hệ” chằng chịt. Vụ ông Đoàn Tiến Dũng, Phó tổng giám đốc Ngân hàng BIDV, bị bắt quả tang đang nhận hối lộ 1 tỉ đồng trong số 10 tỉ đồng đòi chung chi từ một doanh nghiệp dệt may hồi tháng 2-2010 cho thấy doanh nghiệp không chỉ phải “quan hệ” với các quan chức thuộc hệ thống chính quyền mà cả với cán bộ ngân hàng để được cấp phát tín dụng.
Ông Nguyễn Quang Vinh, Giám đốc Văn phòng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cũng thừa nhận việc chi trả các khoản phí ngoài quy định của Nhà nước trong các hoạt động kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp đang ở mức độ phổ biến. Điều này được minh chứng qua kết quả khảo sát gần đây của Ernst & Young. Theo đó, có tới 96% doanh nghiệp Việt Nam được hỏi đã xác nhận từng có liên quan đến hối lộ hay tham nhũng. Tương tự, theo một cuộc điều tra khác của VCCI vào năm 2009, có 59% doanh nghiệp phải mất “phí bôi trơn”; gần 62% số doanh nghiệp được hỏi thừa nhận phải có “mối quan hệ” với cán bộ tỉnh mới tiếp cận được các tài liệu liên quan đến hoạt động kinh doanh như quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch phát triển hạ tầng…; 41% doanh nghiệp thừa nhận phải thương lượng với cán bộ thuế địa phương mới làm ăn suôn sẻ…
Cũng theo kết quả khảo sát nói trên, đáng nói là nhiều doanh nghiệp không cho rằng việc “quan hệ”, chung chi ảnh hưởng, trở ngại lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Khảo sát của Ernst & Young cho biết chỉ có 3% trong số 6.700 doanh nghiệp cho biết “tham nhũng gây khó khăn lớn” cho họ. Điều đó cho thấy đối với một số doanh nghiệp hối lộ, tham nhũng không những không còn là rào cản, không còn bị bắt buộc nữa mà ngược lại trở thành một loại công cụ cạnh tranh lợi hại. Trong mối quan hệ này, doanh nghiệp tự nguyện chủ động “bắt tay” với người có chức có quyền để cùng đạt một mục tiêu là chia nhau lợi ích. Theo luật sư Trần Hữu Huỳnh, Trưởng ban Pháp chế VCCI, có thể thấy rất rõ hiện tượng nói trên trong các lĩnh vực như giao đất, cho thuê đất; cấp phép khai thác khoáng sản; cấp phép ưu đãi đầu tư; thu thuế; hợp đồng mua sắm ở khu vực công…

Xử sự ra sao?
Hầu hết các chuyên gia đều bày tỏ sự lo ngại trước hiện tượng kinh doanh dựa vào “quan hệ” đang gia tăng.
Ông Cao Sĩ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho rằng hiện tượng “quan hệ” trong kinh doanh thể hiện một sự xuống cấp về đạo đức của cả người kinh doanh lẫn cán bộ công chức trong bộ máy nhà nước. Ở một góc độ khác, theo ông Trương Trọng Nghĩa, kiểu làm ăn như vậy không sớm thì muộn sẽ hủy hoại môi trường kinh doanh và nếu chúng ta không kịp thời cải thiện thì “cỏ dại sẽ mọc lấn hết lúa”. Ý ông muốn nói “lúa” ở đây là những doanh nghiệp kinh doanh đàng hoàng sẽ bị thiệt thòi trước sự cạnh tranh không lành mạnh nhờ vào “quan hệ” từ các doanh nghiệp khác. Hậu quả khôn lường là sẽ hình thành các nhóm lợi ích và các nhóm lợi ích này sẽ chi phối cả nền kinh tế.
Theo các chuyên gia, cách làm ăn dựa vào “quan hệ” là chính sẽ gây khó khăn khi làm ăn với thế giới. Mới đây, trả lời trên tuanvietnam.net, ông Lương Văn Tự, nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại, Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam-WTO, nhận định “các doanh nghiệp thế giới sử dụng pháp luật để hợp tác kinh doanh trong khi doanh nghiệp Việt Nam nặng về quan hệ để làm ăn. Điều này có thể dễ dàng trong việc làm ăn nhưng rõ ràng để chơi được với thế giới là điều không dễ”. Cũng với ý đó, trên báo này, bà Virginia Foote, Chủ tịch Hội đồng Thương mại Việt-Mỹ, cảnh báo rằng nếu cứ tiếp tục cách kinh doanh “không giống ai” như vậy doanh nghiệp trong nước sẽ khó có thể làm ăn toàn cầu.
Theo các chuyên gia, nguyên nhân của tình trạng trên là do cơ chế xin-cho vẫn còn tồn tại; hệ thống pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, tạo dư địa cho tiêu cực, nhũng nhiễu. Luật sư Trần Hữu Huỳnh cho rằng ngoài việc xóa bỏ cơ chế xin-cho và nâng chất lượng hệ thống pháp luật lên thì biện pháp không thể chần chừ được nữa là tách quản lý nhà nước ra khỏi kinh doanh và giảm tối đa việc can thiệp của Nhà nước vào thị trường. Nói cách khác, dư địa cho “quan hệ” sẽ mất dần khi thị trường chỉ được điều chỉnh thông qua chuẩn mực luật pháp.
Tuy nhiên, một số doanh nghiệp lại có ý kiến khác. Có doanh nghiệp nói thẳng nếu lựa chọn hai phương án hối lộ hay “mất nồi cơm” thì rõ ràng để tồn tại họ vẫn nghiêng về phương án thứ nhất hơn. “Tôi giả dụ ngày giờ đó doanh nghiệp tôi phải xuất lô hàng cho đối tác. Thế nhưng, cán bộ hải quan gây khó dễ dẫn đến khả năng lô hàng bị chậm trễ, thậm chí không xuất được. Khiếu nại thì phải chờ đợi, có khi được vạ má đã sưng. Chung chi dù mất một số tiền nhưng hàng hóa đảm bảo, dại gì tôi không làm?”, giám đốc một công ty dệt may nói.
Thế nhưng, cũng có ý kiến đặt vấn đề ngược lại: vậy thì tại sao có rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn nước ngoài kiên quyết nói “không” với tham nhũng? Thậm chí, gần đây ở Việt Nam có một số tập đoàn sẵn sàng thuê luật sư với mức phí rất lớn để điều tra, ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp như hối lộ, chung chi, gian lận… (Dịch vụ… chống tham nhũng, TBKTSG, 30-9-2010)? Rõ ràng, đây là vấn đề rất cần được mổ xẻ, tranh luận, ngõ hầu tìm một lối ra cho các doanh nghiệp trong tình hình hiện nay.
Ông Võ Quang Uyên, Giám đốc Công ty cổ phần Sản xuất – Thương mại – Dịch vụ Quang Tâm:
Kết quả khảo sát của Ernst & Young cho biết có tới 96% doanh nghiệp Việt Nam được hỏi đã xác nhận từng có liên quan đến hối lộ và tham nhũng trong công việc kinh doanh. Nhưng tôi lại nghĩ tỷ lệ này phải lên tới 99,9%, vì không có doanh nghiệp nào ở Việt Nam có thể yên ổn làm ăn khi không biết “quan hệ”, “bôi trơn” để công việc kinh doanh thuận lợi hơn. Tôi nêu tỷ lệ này không phải là quá đáng, bởi bản thân tôi từng là cán bộ nhà nước, tôi đã đối mặt với sự nhiễu nhương này nhiều lần, quá chán nản tôi mới bỏ ra làm kinh doanh. Nói không với việc “bôi trơn” là điều không dễ dàng gì với doanh nghiệp, bởi áp lực tồn tại trong kinh doanh.
Doanh nghiệp Việt Nam không rành luật lệ, nên luôn mang tâm lý “sợ”, họ sợ từ hải quan, cán bộ thuế, quản lý thị trường cho đến công an. Điều đáng buồn là doanh nghiệp kinh doanh hợp pháp nhưng vẫn mang tâm lý e ngại các cơ quan công quyền. Từ nỗi sợ này, doanh nghiệp mới chịu “chung chi”, với quan niệm, “vài ba triệu không có bao nhiêu, để công việc của mình hanh thông trót lọt”. Cách ứng xử này lâu ngày sẽ thành thói quen, ra đường không phạm luật lệ gì, nhưng công an thổi còi, xuống xe là gửi ngay… tiền cà phê cho xong chuyện.
Nói đi cũng phải nói lại, thực tế mức lương công chức nhà nước còn quá thấp, ít công chức sống được bằng lương nên đã phát sinh tình trạng nhũng nhiễu làm trái pháp luật. Dù doanh nghiệp kinh doanh hợp pháp, không làm điều gì sai, nếu không chung chi cũng bị các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan “hành”. Nếu chúng ta không giải quyết được cái gốc của những vấn đề này, việc “đi đêm” giữa doanh nghiệp và cơ quan công quyền là điều không tránh khỏi.
Riêng công ty của tôi, ngay từ đầu, tôi đã khẳng định nói “không” với tình trạng nhũng nhiễu, chúng tôi quyết liệt thực hiện điều này và kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật. Như tôi đã nói, điều cần thiết để làm điều này, mỗi doanh nghiệp phải tự trang bị cho mình kiến thức về pháp luật, hiểu và vận dụng tốt những quy định của luật pháp trong lĩnh vực kinh doanh của mình.
Ông Đặng Quốc Hùng, Giám đốc Công ty TNHH Thủ Công Mỹ nghệ Kim Bôi:
Việc “bôi trơn”, sử dụng các mối quan hệ, “đi đêm” với cơ quan công quyền là một thực trạng xã hội mà doanh nghiệp nào cũng phải đối mặt trong quá trình kinh doanh. Tôi cho rằng tình trạng này diễn ra lâu nay là do những quy định về luật pháp của Việt Nam quá rối rắm, thay đổi liên tục, nhiều luật sư hỗ trợ luật pháp cho công ty tôi thừa nhận, họ không thể cập nhật kịp, thông hiểu và vận dụng tốt những quy định của luật hiện hành. Những văn bản luật thiếu nhất quán, không rõ ràng, mỗi nơi hiểu một cách, chính là môi trường tốt cho tình trạng nhũng nhiễu phát sinh. Chúng tôi mong những nhà làm luật nên cân nhắc và rà soát kỹ khi ban hành các đạo luật, tính đến nhiều phương án khác nhau để mỗi đạo luật đi vào thực tế của cuộc sống.
Ngoài ra, Nhà nước cần minh bạch hóa tất cả các quy định của luật và trách nhiệm của mỗi công dân cũng như cơ quan thừa hành và thực thi luật pháp. Trong đó việc minh bạch trách nhiệm là điều quan trọng nhất, doanh nghiệp sai phải xử theo luật quy định, ngược lại cơ quan nhà nước trong quá trình thực thi luật pháp có sai phạm phải bị xử phạt thật nghiêm minh có tính chất răn đe. Thực hiện rốt ráo và nghiêm túc những điều này, chúng ta mới có được một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng và lành mạnh.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần nâng cao trách nhiệm và đạo đức của các nhân viên nhà nước trong quá trình thực thi luật pháp. Đơn cử, khi doanh nghiệp làm một tờ khai hàng hóa để thông quan một lô hàng nhập khẩu, nếu doanh nghiệp làm không đúng, nhân viên nên hướng dẫn tận tình để doanh nghiệp thực hiện đúng tờ khai. Nhưng thực tế, ở một hồ sơ xuất nhập khẩu, nếu làm không quen, doanh nghiệp phải đi lại ít nhất 10 lượt, để bổ sung hồ sơ giấy tờ, mỗi lần, nhân viên nhà nước nói mỗi cách. Thôi thì chịu tốn tiền chung chi một lần để xong việc, khoản chi này tiết kiệm nhiều hơn so với chi phí đi lại. Cụ thể, tất cả mọi công việc kinh doanh của công ty liên quan đến pháp luật, tôi đang làm đều thông qua một công ty dịch vụ. Ngoài chi phí trả cho công ty dịch vụ, chúng tôi phải trả thêm những chi phí không tên khác. Trong bối cảnh kinh doanh khó khăn như hiện nay, những khoản phí này càng góp phần làm cho doanh nghiệp kiệt quệ hơn.
Sơn Nghĩa ghi
Nguồn: THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN

MỐI QUAN HỆ GIỮA DOANH NGHIỆP VÀ CHÍNH QUYỀN

“Quan hệ thiện” – “quan hệ ác”
Trong kinh doanh, ngoài các mối quan hệ với khách hàng, với cổ đông, với người lao động…, doanh nghiệp còn có một mối quan hệ rất quan trọng với chính quyền các cấp. Nếu chủ một quán phở chỉ cần quan hệ với cán bộ thuế, công an khu vực là đủ, thì đối với một công ty bất động sản, để lập dự án, phải xây dựng mối quan hệ với rất nhiều cơ quan, ban ngành. Doanh nghiệp càng lớn, mối quan hệ với chính quyền càng rộng.
Doanh nghiệp kinh doanh nhiều ngành nghề thì càng có mối quan hệ phức tạp với nhiều ngành, nhiều cấp. Hiện nay, một số doanh nghiệp còn hình thành hẳn một bộ phận trực thuộc giám đốc hoặc hội đồng quản trị với chức năng duy nhất là quan hệ với chính quyền.
Với bối cảnh hiện tại của đất nước, khi mà luật pháp vẫn còn nhiều khiếm khuyết, cán bộ còn thiếu chuyên nghiệp, điều này cần được xem xét một cách thận trọng hơn là vội lên án như một số ý kiến hiện nay.
Xét về mặt tích cực, mối quan hệ này giúp cho hai bên thực sự hiểu nhau, đặc biệt là khi luật pháp và các quy định chưa thể bao quát và điều chỉnh được tất cả các hành vi cũng như tất cả các ngóc ngách của hoạt động xã hội nói chung, hoạt động kinh tế nói riêng. Nhờ mối quan hệ này, doanh nghiệp có cơ hội chỉ ra những khiếm khuyết của chính sách qua quá trình thực thi. Cán bộ làm công tác quản lý nhà nước có điều kiện kiểm tra, giám sát và đề xuất để kịp thời điều chỉnh những lỗ hổng để công tác quản lý nhà nước ngày càng hoàn thiện. Tạm gọi đây là mối “quan hệ thiện”.
Mối quan hệ doanh nghiệp – chính quyền là một thực tế, không thể phủ nhận và không thể cấm hoặc xóa bỏ bằng mệnh lệnh hành chính. Để phòng ngừa sự lạm dụng của công chức trong khi xử lý công việc, hệ thống luật pháp liên quan đến công chức đã hình thành trên cơ sở của nền tảng tư duy “công chức chỉ được làm những gì luật cho phép”, còn người dân và doanh nghiệp “được quyền làm những gì luật không cấm”. Với nền tảng này, công chức không thể vượt quyền hạn của mình để duyệt cho doanh nghiệp điều gì nếu luật không cho phép.

Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy rằng mối quan hệ doanh nghiệp – chính quyền đã chuyển sang một giai đoạn mà doanh nghiệp (phối hợp cùng công chức) khai thác triệt để mối quan hệ này để tạo nên những lợi ích riêng, nhất là trong lĩnh vực đất đai, xây dựng, tài chính… Các vụ án về đất đai tại quận Gò Vấp, huyện Hóc Môn và nhiều tỉnh thành trong thời gian qua có liên quan đến những mối quan hệ ngầm đã cho thấy rõ hậu quả của việc sử dụng các mối quan hệ nhằm tạo lợi ích riêng. Nhiều doanh nghiệp khi đến làm việc tại một số cơ quan công quyền đã được giới thiệu đến các công ty tư vấn, mà thật ra đó là những đơn vị kinh doanh bằng mối quan hệ với các quan chức. Tạm gọi đây là mối quan hệ “ác”.
Nhiều doanh nghiệp, doanh nhân ban đầu nhờ mối “quan hệ thiện” mà công việc trôi chảy. Sau đó họ đã dùng mối quan hệ đó như là một kiểu kiếm thêm và dần dần chuyển mối quan hệ đó thành “ác”.
“Thiện” có thắng “ác”?
Từ điểm xuất phát ban đầu với mục đích tốt đẹp, mối “quan hệ thiện” đã phát triển nhanh thành một kiểu kinh doanh với vốn ít, thậm chí không cần vốn mà vẫn có lãi lớn. Ngoài việc xuất phát từ sự tham lam, tư lợi của một số quan chức, doanh nhân, mối “quan hệ ác” đã được nuôi dưỡng thêm bởi các nhân tố như:
Sự thiếu nhất quán của hệ thống luật pháp.
Doanh nghiệp A khi lập thủ tục trả tiền sử dụng đất đã được cơ quan tài chính thông báo giá đất theo văn bản giá đất do tỉnh ban hành phân theo tuyến đường. Nhưng nhờ quan hệ tốt, doanh nghiệp đã được cán bộ địa chính tham mưu giá đất thấp hơn nhờ áp dụng giá theo loại đất. Điều này xuất phát từ việc trước đây một số địa phương còn dùng hai khung giá cho tuyến đường và cho loại đất, dẫn đến giá khác nhau, giúp doanh nghiệp được lợi hàng tỉ đồng nếu biết vận dụng, dĩ nhiên là nhờ mối quan hệ với công chức.
Cùng một vấn đề nhưng tỉnh này xử lý khác tỉnh kia; quận này xử lý khác quận nọ, thậm chí trong cùng một địa phương mà người lãnh đạo này xử lý khác những người lãnh đạo khác; mỗi cán bộ thực thi công vụ hiểu nội dung của các quy định cũng khác nhau. Do vậy, nếu có mối quan hệ với lãnh đạo sẽ được xử lý theo cách tốt nhất.
Sự thay đổi quá nhanh chóng của hệ thống chính sách.
Nhiều luật sư cho biết họ khó cập nhật kịp thời các chính sách, quy định của Chính phủ và chính quyền các cấp. Có luật sư khi tư vấn cho doanh nghiệp còn phải nêu thêm rằng điều này được giải quyết nhanh hay chậm còn tùy vào quan hệ của doanh nghiệp với chính quyền (!).
Theo trang web của Chính phủ, hàng năm, Quốc hội phải ban hành từ 20-30 luật, mỗi luật cần ít nhất hai nghị định, mỗi nghị định lại cần từ 2-3 thông tư và nhiều hướng dẫn để thực hiện, rồi các nghị định khác điều chỉnh, sửa đổi các vấn đề phát sinh và kèm theo đó là các thông tư, hướng dẫn… Đó là chưa kể văn bản, quy định của từng địa phương, từng ngành… Như vậy, cách tốt nhất vẫn là phải có quan hệ để thoát khỏi khu rừng văn bản ngày càng dày đặc này.
Một thiên la địa võng các thủ tục.
Điều này khiến không những doanh nghiệp mà chính các cán bộ công chức cũng gặp khó khăn khi thực thi, không thể nào nắm hết. Cùng một thủ tục, nếu có quan hệ sẽ mất vài tuần, vài ngày, còn không thì có thể mất đến vài tháng. Chẳng hạn ngành xây dựng, tuy đã có cải cách nhưng để hoàn tất thủ tục xây dựng dự án, khối lượng các văn bản, hồ sơ liên quan là rất lớn.
Nhiều cửa.
Phong trào một cửa một dấu rộ lên một thời gian ngắn hiện đã xẹp xuống và doanh nghiệp đang trở lại tình trạng phải chạy nhiều nơi cho một việc. Để lập một dự án xây dựng nhà ở chẳng hạn, doanh nghiệp phải đi qua rất nhiều cửa, từ phường lên quận rồi đến các sở tài nguyên môi trường, sở quy hoạch kiến trúc, tài chính, phòng cháy chữa cháy… Tại tất cả các cửa này, nếu không có quan hệ sẽ không thể nào đẩy nhanh công việc.
Sự thiếu minh bạch trong các chính sách, đặc biệt là lĩnh vực đất đai, xây dựng.
Thiếu minh bạch nhất trong lĩnh vực đất đai là quy hoạch. Dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực xóa bỏ các dự án treo nhưng hiện tại vẫn còn không ít các khu đất còn quy hoạch treo, khiến người dân và doanh nghiệp có đất không thể làm gì với mảnh đất của mình nếu chẳng may nằm trong khu quy hoạch treo. Những khu đất được quy hoạch đó đều do các doanh nghiệp có quan hệ tốt với chính quyền tìm cách ghìm giữ dù bản thân họ không có khả năng triển khai.
Các tiêu chuẩn trong lĩnh vực nhà đất như mật độ xây dựng, hệ số sử dụng đất, chỉ tiêu dân số, tầng cao… đều là những con số mà việc công bố cũng chỉ mang tính hình thức và đều có thể thay đổi tùy theo “quan hệ”.
Quản lý càng chặt càng tạo cơ hội cho những mối “quan hệ ác” phát triển.
Một sự thật đáng buồn tại nước ta là khi cơ quan quản lý đưa ra những quy định chặt chẽ lại là lúc những mối “quan hệ ác” có dịp phát triển. Ở đây ta không vơ đũa cả nắm. Dù sau đó được ngăn chặn, những “quan hệ ác” cũng đã hạ cánh an toàn.Sự kiểm soát lỏng lẻo, tình trạng thượng bất chính.Ở những địa phương, những ngành nào mà lãnh đạo cao nhất có sự kiểm soát chặt chẽ, nghiêm minh, trong sạch thì ở đó các mối “quan hệ ác” sẽ giảm. Theo quy định, địa phương nào, ngành nào để xảy ra tham nhũng thì lãnh đạo ngành đó, địa phương đó phải chịu trách nhiệm. Nhưng trên thực tế, điều này đã không được thực thi nghiêm túc. Vì thế các mối “quan hệ ác” vẫn có cơ hội phát triển.
Tóm lại, chúng ta phải nhận ra rằng phát triển mối quan hệ doanh nghiệp – chính quyền theo hướng “thiện” sẽ giúp Chính phủ và chính quyền các cấp thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước.
Việc triệt tiêu các “quan hệ ác” không những đòi hỏi một sự kiên trì mà còn đòi hỏi Chính phủ phải nâng cao sự minh bạch, điều mà nhiều chuyên gia, nhiều giới cả trong và ngoài nước đã lên tiếng từ nhiều năm qua nhưng việc thực thi còn thiếu quyết tâm. Do vậy, trước mắt “cái thiện” vẫn phải tiếp tục sống chung với “cái ác”, và doanh nghiệp vẫn thỉnh thoảng phải nhúng tay vào chàm để tồn tại và phát triển. Điều này nếu để lâu sẽ khiến cho môi trường kinh doanh bị “nhiễm bẩn” và các nhà đầu tư chỉ biết dùng “quan hệ thiện” sẽ rút lui dần!
Nguồn: THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN

Thứ Năm, 3 tháng 3, 2011

Nhận diện lại tính cách người Việt

Nếu quan sát dư luận xã hội ở Việt Nam thể hiện trên báo chí trong những năm gần đây, có thể nhận thấy một nhu cầu có thật của người Việt. Dẫu biểu hiện có thể khác nhau, thậm chí đối lập, nếu như ở nơi này là những diễn đàn như “Nước Việt Nam to hay nhỏ” hay ở nơi khác là những chuyên mục như “Thói hư tật xấu” của người Việt, thì có lẽ cũng chỉ là biểu hiện của cùng một nhu cầu bức thiết: nhìn nhận lại về mình. Cuối tháng 11 vừa qua, tòa soạn Tia Sáng đã tổ chức một cuộc tọa đàm về Tính cách người Việt? với sự tham dự của một số nhà nghiên cứu, nhà khoa học, văn nghệ sĩ là công tác viên của tạp chí: Giáo sư Hoàng Tụy, nhà thơ Lê Đạt, nhà văn Nguyên Ngọc, các nhà khoa học, nhà giáo Trần Ngọc Vương, Đỗ Lai Thúy, Phạm Duy Hiển, Phạm Duy Nghĩa, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Quang A...
Vấn đề tòa soạn đặt ra đã nhận được sự tán thành của những vị khách mời tham dự tọa đàm. Giáo sư Hoàng Tụy cho biết từ lâu, qua kinh nghiệm giảng dạy, ông đã nhận thấy một số đặc điểm có tính hạn chế chung của nhiều thế hệ học trò: thiếu một khả năng đào sâu trong tư duy, thiếu đầu óc tưởng tượng, thiếu khả năng kiên trì, đi đến cùng trong những tham vọng đạt đến bằng được những thành tựu đỉnh cao. Kinh nghiệm đó buộc ông phải suy nghĩ đến những hạn chế trong tính cách của người Việt nói chung. Kinh nghiệm này của Giáo sư Hoàng Tụy cũng được ông Trần Ngọc Vương cùng chia sẻ. Ngay từ khi mới bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy lịch sử quốc văn ở bậc đại học, ông đã đặt ra mục tiêu tìm hiểu đặc điểm phong cách tư duy của người Việt, nhận chân chân dung tinh thần của người Việt. Mục tiêu đó đã đươc hiện thực hóa thành nhiều công trình nghiên cứu mà theo cảm nhận của cá nhân ông là có sự cộng hưởng trong xã hội. Từ góc nhìn khác, nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy cho rằng ẩn sâu trong tâm lí của dân tộc Việt, thể hiện qua kho tàng folklore, có một thứ tâm lí nguy hiểm của người Việt tự ảo tưởng về chính mình và khả năng thành công của chính mình. Tâm lí đó thể hiện qua những câu chuyện về những ông Trạng chân đất, những ông Trạng Lợn, Xiển Bột là rất rõ. Tất nhiên, tâm lí đó không phải chỉ có ở riêng người Việt nhưng điều đó càng có nghĩa là chúng ta phải nhận thức lại về chính mình.
 
Như vậy, rõ ràng nhu cầu nhận thức lại về chính mình là một nhu cầu có thật đối với người Việt trong hoàn cảnh hiện nay. Nhà văn Nguyên Ngọc đã so sánh hoàn cảnh của Việt Nam ngày nay với một thế kỉ trước, thời điểm những phong trào Duy tân diễn ra. Ở cả hai thời điểm, Canh tân và Phục hưng dân tộc đều là những yêu cầu có tính cách sống còn. Và trong cả hai thời điểm, vấn đề tự phê phán luôn là một trong những vấn đề có tính cách xương sống. Ông cũng cho rằng cần nhất thiết phải "đánh đổ" một tâm lí coi việc nói về những nhược điểm của chính dân tộc mình như một điều cấm kị. Với quan niệm trước hết, cần phải làm một cuộc "tổng kiểm kê" tất cả mọi đặc tính của người Việt một cách khách quan và lạnh lùng nhất,  TS.Nguyễn Quang A nhìn nhận công việc của những người như ông Vương Trí Nhàn tìm kiếm "thói hư tật xấu" của người Việt là một việc làm có ý nghĩa.

Cũng cần phải nhắc lại là quá trình nhận thức lại những đặc tính của người Việt cũng là một công việc được nhiều vị học giả, nhà nghiên cứu tiền bối có toan tính hoặc đã thực sự thực hiện. Trong những người này, có thể kể đến cố Giáo sư Trần Quốc Vượng, cố Giáo sư Cao Xuân Hạo và đặc biệt, cố Giáo sư Trần Đình Hượu với công trình Đến hiện đại từ truyền thống. Tuy nhiên, từ đây, vấn đề đặt ra là công việc này cần phải được tiến hành như thế nào. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương cho rằng cần phải tìm hiểu vấn đề trong chiều sâu chứ không phải chỉ là những vấn đề manh mún, vụn vặt. Không thể chỉ thỏa mãn với việc liệt kê những sự kiện, với những nhận xét, dù hết sức thuyết phục và hấp dẫn về tính cách người Việt. Phải giải thích và cắt nghĩa tất cả những biểu hiện đó. Quan điểm của ông Vương đã nhận được sự tán thành của tất cả các vị khách mời. Không những vậy, theo nhà văn Nguyên Ngọc một trong những yếu tố quan trọng nhất để tìm hiểu tính cách người Việt là cần phải nhận thức lại lịch sử. Sau một thời gian dài chiến tranh với yêu cầu tuyên truyền được đặt lên hàng đầu, ngày nay, lịch sử Việt Nam cần phải được viết lại, viết lại không có nghĩa là "viết ngược" mà là viết đúng hơn, gần hơn với sự thật lịch sử, khách quan, khoa học hơn. Từ một phía khác, theo quan điểm của nhà thơ Lê Đạt cho rằng cần phải thấy đặc tính dân tộc là một tiềm năng và có tính động. Những gì hôm qua là tích cực thì lại có thể là tiêu cực với ngày hôm nay. Cần phải sống vì cái hiện tại, cái tương lai chứ không phải vì quá khứ.
Từ xuất phát điểm có tính định hướng nói trên, các nhà nghiên cứu đã quay lại với vấn đề những yếu tố chi phối đặc tính dân tộc Việt. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương cho rằng trong hai trục tồn tại và phát triển, toàn bộ lịch sử Việt Nam chủ yếu chỉ xoay quanh trục tồn tại. Những thành tựu lớn nhất của người Việt trong lịch sử đều liên quan đến việc khẳng định và bảo vệ sự tồn tại. Với vị trí địa lí đặc biệt, đối với người Việt, tồn tại được đã là một kì tích và đòi hỏi một phẩm chất cao quý. Đó là một yếu tố mà bàn đến tính cách Việt phải tính đến. Thế nhưng, chính vì nhu cầu tồn tại luôn được đặt lên hàng đầu nên những hạn chế của tính cách người Việt đều tập trung vào mệnh đề phát triển.
Một số vị khách mời tuy đồng thuận với luận điểm của ông Vương nhưng cho rằng đó không phải là nguyên nhân duy nhất. Theo ông  Đỗ Lai Thúy, một trong những đặc điểm lịch sử quan trọng tạo quyết định những đặc điểm của tính cách người Việt đó chính là sự tồn tại dai dẳng trong lịch sử của xã hội tiểu nông. Ngay từ yếu tố địa lí, hệ sinh thái tiền sử Đông Nam Á mà trong đó có Việt Nam là hệ sinh thái phổ tạp, có mọi thứ nhưng mọi thứ đều manh mún. Từ đó dẫn đến sự xuất hiện sớm và sự tồn tại kéo dài của tính cách tiểu nông cở sở của chế độ quân chủ chuyên chế. Trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, đề cao các giá trị của văn hóa làng xã cũng chính là một cách duy trì và đề cao những giá trị tiểu nông và trên một phương diện nào đó đã dung dưỡng những tính xấu của người Việt.
Từ ý kiến của GS. Phạm Duy Hiển về những đặc điểm lịch sử chi phối sự hình thành tính cách dân tộc, bắt đầu từ, buổi tọa đàm mở rộng sang vấn đề hệ quả của sự tồn tại kéo dài của các chế độ có tính cách chuyên chế trong lịch sử Trung đại Việt Nam đối với sự hình thành và phát triển của giới trí thức. Theo ông Trần Ngọc Vương trong bốn loại hình nhà Nho chính (nhà tư tưởng, học giả, ông quan và người nghệ sĩ), lịch sử phát triển của Nho giáo Việt Nam thiếu vắng gần như hoàn toàn hai loại hình đầu tiên. Từ đây, đặt ra vấn đề những thiếu hụt có tính lịch sử của tầng lớp trí thức ở Việt Nam và những tác động nhiều mặt của nó đến sự phát triển của xã hội.
Những khách mời cuộc tọa đàm đều cho rằng trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào quá trình toàn cầu hoá, đây là một vấn đề quan trọng cấp thiết và cần có sự trao đổi của nhiều tầng lớp xã hội trên diễn đàn của Tia Sáng.

Nguồn: Tạp chí Tia Sáng

Nhìn nhận về Dự luật tiếp cận thông tin

“Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” là một chủ trương thường được nhắc tới trong nhiều văn kiện chính trị bàn về dân quyền ở Việt Nam. Để giúp người dân biết chính quyền đã và đang làm gì, một đạo luật về tự do thông tin đang được Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo. Người ta đã cho dịch và xuất bản các văn kiện pháp lý quốc tế và các đạo luật về tự do thông tin từ nhiều quốc gia trên thế giới, bước đầu xây dựng được một bản đề cương với 32 điều làm tư liệu thảo luận về dự luật này. Bài viết dưới đây góp phần nhìn nhận về nhu cầu, giới hạn và những tác động khả dĩ có được của dự luật này từ góc độ bảo vệ dân quyền.

Một đạo luật cần cho người dân, báo chí và chính quyền
Báo giới Việt Nam thường ráng né nhiều vấn đề được cho là nhạy cảm, song trên thực tế những vấn đề đó nếu được bàn luận tự do chưa chắc đã được số đông người dân quan tâm. Bình dân quan tâm đến việc an sinh thường ngày. Công việc, thu nhập, học hành, sức khoẻ và mọi sự tiện lợi trong giao lưu xã hội là những ưu tiên hàng đầu. Trong giao tiếp với chính quyền, người ta mong được đối xử công bằng và rõ ràng. Sự bất bình của dân chúng thường khởi nguồn từ những đối xử của chính quyền mà họ cảm thấy bất công. Thu hồi và sử dụng đất không đúng mục đích, đền bù không thoả đáng cho đất bị thu hồi, không được tạo việc làm và cơ hội chuyển nghề, sự bất lực của chính quyền trước ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường và các bất an khác trong xã hội… thường là những mồi lửa tạo nên bất bình. Tích tụ lâu ngày, mồi lửa nhỏ cũng tạo nên đám cháy. Động loạn lớn đôi khi có nguyên căn từ vô cảm của chính quyền trước những lo toan nho nhỏ của người dân.
Tự do thông tin tốt cho người dân, báo giới và chính quyền: Một đạo luật bảo đảm quyền tự do thông tin của người dân nếu được ban hành sẽ giúp báo giới tự tin hơn khi khai thác quyền được biết, quyền được nói của người dân. Có biết, có dám tranh luận, rồi một ngày người dân mới học cách tập hợp lực lượng để phản biện lại, một cách hoà bình và văn minh, các chính sách của chính quyền khi cần thiết. Đạo luật này cũng giúp quan chức hành chính tự tin hơn khi tiết lộ thông tin cho dân chúng mà không sợ vi phạm các nghĩa vụ bảo mật. Thêm nữa, có được sự hiểu biết và thông cảm từ phía người dân các chính sách của Nhà nước cũng dễ thực hiện hơn. Tăng tự do thông tin cho người dân cũng nghĩa là tăng sức đề kháng, tăng cường ổn định, làm trong sạch, giúp bảo vệ chính quyền.
Tương quan giữa Luật tiếp cận thông tin và Luật báo chí
Từ đưa tin tới tự do khám phá sự thật: Được hậu thuẫn từ quyền tự do thông tin của người dân, có thể trên thực tế, báo chí sẽ có những lợi ích, động cơ, tính chuyên nghiệp, bộ máy và năng lực để “thừa ủy quyền” của người dân mà truy tìm thông tin, khám phá ra những sự thật mà cơ quan Nhà nước có thể chưa muốn công bố cho công chúng (trừ những thông tin cần bảo mật vì lợi ích quốc gia). Không chỉ ở vị trí thụ động, phát ngôn cho các cơ quan của Đảng và cơ quan hành chính, dựa trên luật về tự do thông tin, báo chí chuyển sang một vị thế chủ động hơn, khai thác, điều tra, truy đuổi các thông tin đáng ra cơ quan Nhà nước phải công bố. Triết lý này phải được ghi nhận bởi luật báo chí, nói cách khác, ban hành luật về tự do thông tin sẽ làm một cú hích để tu chỉnh luật báo chí nhằm xác định trách nhiệm xã hội của báo chí trước nhân dân và dân tộc.
Chủ đề nhạy cảm: Ngoại lệ đối với tự do thông tin của người dân cũng nên là ngoại lệ đối với tự do báo chí. Ngoài bí mật Nhà nước, bí mật của doanh nghiệp, quyền riêng tư của người dân cũng nên là một chủ đề cần thận trọng khi công bố trên báo chí. Những nguyên tắc này cần được ấn định rõ ràng. Cần tìm cách giới hạn quyền lực của cơ quan Nhà nước trong quản lý báo chí, không cho họ tự tiện tuyên bố những vấn đề nhạy cảm cấm đưa tin dựa theo quan niệm của một số quan chức có quyền. Ở những vấn đề này báo chí cũng phải có tố quyền, phải được tranh luận vì sao một chủ đề nhất định lại được xem là nhạy cảm, và vì sao họ không được phép đưa tin. Một cơ chế tranh luận, xét xử bảo mật, hoặc một phiên điều trần không công khai trước các ủy ban của cơ quan dân cử có thể giúp thẩm định và giới hạn những vấn đề được xem là nhạy cảm vào những tiêu chí khách quan hơn.
Tương quan giữa Luật tiếp cận thông tin và Pháp lệnh về bí mật Nhà nước
Làm việc với Tập đoàn Bưu chính Viễn thông (VNPT) và Tổng Công ty Viễn thông Quân đội (Viettel) ngày 13/3, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói: "Quyền được thông tin của nhân dân thì nhân dân phải biết Chính phủ đang làm gì và sắp làm gì”.
Bí mật Nhà nước?
Trong cơn khát, luật về tự do thông tin ví như một bầu nước, song Pháp lệnh về bí mật Nhà nước năm 2000 lại chính là cái nút thắt chặt lấy bầu nước ấy. Một bản kết luận nước tương hay sữa kém phẩm của một sở y tế địa phương, bản danh mục điện thoại của các đại biểu Quốc hội có là bí mật Nhà nước, nếu phóng viên tiệm cận và công bố những tin ấy, liệu có được xem là vi phạm các quy định về bí mật Nhà nước hay không? Pháp lệnh số 30/2000/PL-UBTVQH10 về bí mật Nhà nước định nghĩa rất rộng, cho rằng bí mật là tất cả những gì có trong danh sách được xem là bí mật, danh sách này do người đứng đầu cơ quan tổ chức Nhà nước hoặc người được ủy quyền đề nghị và tuỳ theo loại tối mật, tuyệt mật hoặc mật mà do Thủ tướng hoặc Bộ trưởng Bộ Công an quyết định. Tóm lại bí mật là những gì cơ quan hành chính Nhà nước trình và được Bộ Công an thẩm định đồng ý cho là mật.
Thẩm định danh mục bí mật: Theo Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ban hành ngày 28/03/2002 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh về bí mật Nhà nước năm 2000, trên thực tế các thông tin được xem là bí mật Nhà nước thực ra rộng hơn cả khái niệm thông tin Nhà nước. Bởi lẽ, người đứng đầu các tổ chức chính trị, chính trị xã hội cũng có thể lập danh sách các thông tin được xem là bí mật Nhà nước. Điều này áp dụng đối với các thông tin của Đảng, của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các thông tin được cho là bí mật Nhà nước do các tổ chức chính trị xã hội khác đề xuất. Nghị định tuy có nhắc đến việc thẩm định các danh sách đề xuất này, song không cụ thể hoá việc thẩm định được diễn ra như thế nào, với những tiêu chí gì. Cũng như vậy bản thân các danh sách những gì được xem là mật này cũng có thể được công bố hoặc không, tuỳ thuộc vào Bộ Công an xem xét quyết định. Trên trang thông tin điện tử của Chính phủ người ta có thể theo dõi vô số các danh sách bí mật đã được công bố, từ danh sách bí mật của Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, cho tới bí mật của ngành xây dựng, ngành công thương.
Rà soát lại pháp luật về bí mật Nhà nước: Điểm lại thông tin báo chí Việt Nam trong các năm gần đây, xuất hiện nhiều vụ việc có thể liên quan đến vấn đề bảo vệ bí mật Nhà nước có thể cần được thảo luận thêm, ví dụ về vụ việc phóng viên Lan Anh của báo Tuổi trẻ bị khởi tố liên quan đến tài liệu được cho là bí mật của Bộ Y tế. Theo pháp luật hiện hành, một thông tin nằm trong danh sách bí mật do Bộ Y tế đề xuất đã được Bộ Công an quyết định, đã được đóng dấu mật, thì được xem là bí mật. Nếu không giải thích được rành rọt cách thức lấy được thông tin đó, cô phóng viên gặp phải rủi ro có thể được xem là vi phạm bí mật Nhà nước. Tương tự như vậy, việc đưa tin về các đề án xây dựng quy hoạch vùng có thể vi phạm bí mật thuộc phạm vi do Bộ Xây dựng phụ trách, xem § 1 Quyết định số 2039/2008/QĐ-BCA (A11) ngày 03/12/2008. Đáng lưu ý rằng quy hoạch là một thông tin tối nhạy cảm trong lĩnh vực đất đai, ảnh hưởng đáng kể đến dân cư. Cũng như vậy, nếu quá say sưa đưa tin về vụ khai thác Bauxite ở Đắc-Nông (Tây Nguyên), báo chí có thể gặp phải nguy cơ vi phạm những thông tin được xem là tuyệt mật liên quan đến chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về khai thác khoáng sản, xem § 2.4 Quyết định số 106/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 21/07/2008 về danh sách thông tin độ tối mật, tuyệt mật trong ngành Công thương.
Phạm vi và quy trình thẩm định danh sách bí mật: Cuộc thảo luận về luật về tự do thông tin không trực tiếp thay đổi được các quy định về bảo mật, song như một mắt xích hướng tới sự minh bạch hơn trong quản trị quốc gia, đạo luật này hối thúc việc sửa Pháp lệnh về bí mật Nhà nước, nhất là xác định những nội dung nào được xem là bí mật và từng bước hướng tới một quy trình thẩm định, tương đối khách quan và có thể giám sát được, các tiêu chí đánh giá một thông tin có cần được xem là bí mật Nhà nước hay không.
Nguồn: Tạp Chí Tia Sáng

Hành trang vươn tới một quốc gia công nghiệp

Bước vào năm 2011, nước ta còn đúng một thập kỷ để thực hiện mơ ước trở thành quốc gia công nghiệp. Bên cạnh những văn minh vật chất như cảng biển, khu công nghiệp, tàu cao tốc... có thể dành dụm hoặc dựa vào tiền vay mà dựng lên thì một quốc gia công nghiệp còn cần tới phong cách ứng xử công nghiệp. Năm mới cũng nên là dịp nhìn lại hành trang của nước ta trên lộ trình đó.
Kỷ luật thị trường và tập đoàn

Từ hai chục năm nay chúng ta lại yêu kinh tế thị trường. Ồn ào giữa chợ, rượt đuổi theo lợi nhuận, người thắng kẻ thua, nửa triệu doanh nghiệp đủ loại ganh đua nhau giành lấy trái tim khách hàng. Nhớ lại một thời bao cấp chưa xa, với bộ máy kế hoạch Nhà nước đã nghĩ thay người sản xuất và nghĩ thay cả cho người tiêu dùng. Thật vĩ đại, kỷ luật thị trường đã thay đổi đáng kể nếp nghĩ trên đất nước chúng ta.

Từ chỗ quản lý hàng vạn xí nghiệp quốc doanh nay nhà nước đã thu hẹp phạm vi kinh tế quốc doanh, chỉ còn giữ lại 12 tập đoàn và khoảng 1.500 doanh nghiệp, hết thảy được ép phải chơi cùng một luật chung với dân doanh. Đồng thời bộ máy công vụ đang tách dần ra khỏi khu vực hành chính sự nghiệp, công chức tách dần khỏi viên chức. Một nhà nước ôm đồm đang làm cuộc tự lột xác không hề dễ dàng để trở thành một nhà nước nhỏ hơn, nhưng năng động hơn, hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn.

Chỉ có điều, số lượng tuy giảm, song 12 tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn được ưu ái vốn và nguồn tài nguyên, riêng vốn cho Vinashin đã lên tới 113 nghìn tỷ đồng, tức là gấp trên 100 lần ngân sách của một tỉnh quy mô nhỏ như Đồng Tháp. Năm 2010, người ta không thể quên Vinashin, một tập đoàn thua lỗ, phơi bày ra những lỗ hổng đáng báo động về trách nhiệm quản lý vốn nhà nước đầu tư cho các công ty quốc doanh. Chỉ có được những nguồn tin thứ cấp, một khối tài sản lớn của quốc gia được giao cho những thành viên hội động quản trị công ty mà thiếu vắng những thiết chế giám sát hiệu quả.

Vinashin không chỉ là câu chuyện trả 86 nghìn tỷ đồng nợ khó đòi. Lấy tiền dân đầu tư vào các tập đoàn, tiền ấy không phải của nhà nước, càng không phải của cá nhân các quan chức. Giao tất cả tài nguyên quốc gia cho nhà nước quản lý, ông chủ nhân dân phải làm gì để giám sát chính quyền. Vinashin thua lỗ, Quốc hội, Chính phủ và các bộ đều có phần lỗi, song chưa có cơ sở để quy rõ hơn trách nhiệm thuộc về ai, một nhu cầu sắp xếp lại nền quản trị quốc gia đã trở nên bức bách.

Sở hữu tư nhân và công bằng xã hội


Hai thập kỷ tái khởi động nền kinh tế thị trường đã làm sống lại sở hữu tư nhân. Những ông chủ đang thay khuôn mặt mới. Bùn đỏ từ khai khoáng xuất hiện ở Cao Bằng, rừng biên giới ở Lạng Sơn được cho người nước ngoài thuê, đất Ba Vì lên cơn sốt, bờ sông Sài Gòn tới những bãi biển miền Trung bị khoanh thành của riêng, tránh tư nhân hóa song trớ trêu thay chúng ta lại mở cửa cho tài nguyên quốc gia đôi khi được khai thác thiếu kiểm soát vì lợi ích tư nhân.

Khi kinh tế tư nhân đã chiếm tới 48% GDP, đã tới lúc phải nhìn nhận lại vai trò của sở hữu công cộng và sở hữu tập thể của các hợp tác xã. Nếu tiếp tục đề cao công hữu, do khả năng quản lý kém, của công có nguy cơ ngấm ngầm biến thành tư. Tích lũy tiền bạc lâu ngày sẽ trở thành sức mạnh, tới khi cái võ cũ bị đục rỗng, một trật tự của cường lực và những đặc quyền mới sẽ lộ diện.

Một quốc gia công nghiệp phải là một chế độ có nền công lý đảm bảo tự do của mọi người dân, tức là phải có một chế độ pháp quyền. Luật pháp dày đặc, song nếu chúng chỉ nhằm thay thế danh tước những ông chủ một cách tân thời, thì nguồn lực trong quốc gia vẫn bị kiểm soát bởi những nhóm lợi ích đặc quyền. Khi ấy lợi ích tư nhân thắng thế, hệ thống nhà nước và luật pháp trở thành pháo đài chiến lũy bảo vệ người có quyền và thế lực, ngăn cản quyền tiệm cận nguồn lực và thi thố tài năng của bất kỳ ai. Nếu điều ấy xảy ra, cũng tựa như vô số nước đang phát triển khác, chúng ta có nhà máy lọc dầu và có thể có đường sắt cao tốc, song chưa có nền tảng ứng xử công bằng của một xã hội công nghiệp.

Xã hội công dân


Từ năm 2001 Hiến pháp nước ta được sửa đổi, bổ sung thêm một quy định rằng Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân. Luật pháp đã được ban hành nhiều, song vẫn còn rất nhiều việc phải làm để hướng tới một xã hội thượng tôn pháp luật. Kinh tế thị trường không còn nghi ngờ gì nữa đã cởi trói cho sở hữu tư nhân. Song càng khuyến khích kinh tế tư nhân, càng phải có một nhà nước mạnh để phân bổ phúc lợi và sự thịnh vượng trong quốc gia một cách công bằng.

Nhà nước thường chỉ mạnh khi người dân ý thức được quyền và trách nhiệm công dân, tìm cách kiểm soát, giám sát chính quyền. Năm 2010 đã xuất hiện những vụ kiện Bộ Công thương vì thông tư của Bộ có dấu hiệu trái luật, gây thiệt hại tiền tỷ cho doanh nghiệp hoặc người dân khởi kiện chính quyền địa phương do “lô cốt” cản trở việc kinh doanh của họ. Cứ đà ấy, “quy hoạch treo, hố tử thần” một ngày kia có thể trở thành những vụ kiện khi người dân học được cách chất vấn và truy tìm trách nhiệm của chính quyền.

Từ văn hóa cho đến pháp luật

Dùng văn để giáo hóa, dùng văn để trị, nôm na hành xử văn hóa tức là tập ứng xử như một con người xã hội. So với cách hiểu ấy, hai chữ văn hóa ngày nay đã thay đổi nhiều. Như một ngành thực hiện quản lý nhà nước, năm 2010 diễn ra vô số sự kiện văn hóa và phi văn hóa. Sự kiện lớn 1000 năm Thăng Long đã qua. Tự hào vì thủ đô cũng như vô số các đô thị mới phát triển nhanh, ngày càng mới, song để đô thị đẹp hơn, xanh hơn, sạch hơn, biết nâng niu những giá trị cổ truyền, để mỗi con người sống trên đất đô thị ứng xử với nhau văn hóa hơn, hình như còn ngổn ngang những việc phải làm.

Năm 2010 cũng là năm mà các netizen được cung cấp vô số mẩu phim phản cảm trên Internet, từ cô bảo mẫu dội nước vào mặt, tắm cho trẻ bằng chân, bé Hào Anh bị hành hạ, cho tới nhan nhản bạo lực nơi học đường. Văn hóa tức là cách người ta hành xử, nhân nào quả đấy, có biết bao nhiêu căn cớ để lý giải vì sao con người ta hành xử thì cũng có bấy nhiêu cội nguồn nhào nặn ra văn hóa của con người nước ta. Hãy giải thích vì sao dân tộc chúng ta hầu như chưa quen xếp hàng, chưa quen tuân thủ luật lệ giao thông, chưa tự giác xả rác đúng nơi quy định. Như lá cành thân rễ, từ muôn đời nay đời sống tư tưởng, tâm linh, tôn giáo, thói quen, tục lệ và pháp luật, hết thảy những quy phạm xã hội đa dạng ấy đã tựa như một cái cây vững chãi tạo nên văn hóa của người dân nước ta.

Muốn đạt tới cách ứng xử văn minh trong một quốc gia công nghiệp, không thể thụ động chờ tập quán người dân nước ta tự diễn biến, tự đổi thay. Từ truyền thống văn trị, phải cần tới một trật tự pháp trị rõ ràng, lấy những chuẩn mực pháp luật nghiêm minh làm thước đo thay đổi hành vi con người. Hướng tới một quốc gia công nghiệp, nếu định hướng hành vi ứng xử văn hóa trở nên khó khăn và thiếu cụ thể, phải định hướng hành vi con người theo những chuẩn mực cụ thể của pháp luật, dần dà con người văn hóa sẽ được định hình dần theo.

Hai thập kỷ đổi mới theo kinh tế thị trường cũng là hai thập kỷ văn bản luật trên giấy tăng nhanh theo thời gian. Song từ luật trên giấy cho đến luật ngoài đời còn quá nhiều vênh lệch. Không thể áp dụng những tiêu chuẩn kép, luật pháp phải công bằng, áp dụng công khai cho mọi đối tượng, không phân biệt lý lịch, thành phần xuất thân. Khi pháp trị được thiết lập, qua năm tháng những tín hiệu này sẽ tác động ngược trở lại hành vi ứng xử có văn hóa của người dân.

Một thập kỷ mới đang tới. Trở thành một quốc gia công nghiệp, ngoài những chỉ số kinh tế lớn lao, cũng có nghĩa thật giản dị rằng người dân nước ta phải biết dừng trước đèn đỏ và nhường nhịn khi tham gia giao thông. Để có được một quốc gia như vậy, ngoài kinh tế thị trường, trong hành trang vươn tới văn minh, dân tộc chúng ta rất cần một chế độ thượng tôn pháp luật và nhiều hơn nữa tinh thần công dân.

Nguồn: Tạp chí Tia Sáng

MỘT SỐ SƠ SUẤT KHI ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

Một khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, yếu tố "có tình" có thể tùy thuộc theo nhận định của mỗi người ở từng góc độ, hoàn cảnh khác nhau thì yếu tố "có lý" lại đòi hỏi sự thông hiểu pháp luật một cách tường tận, cũng như vận động nó trong tình huống thực tế một cách chuẩn xác.
Đơn phương chấm dứt mối quan hệ lao động với người lao động (NLĐ) một cách có tình, có lý không phải chuyện dễ dàng cho người sử dụng lao động (NSDLĐ) nói chung và các trưởng phòng nhân sự, giám đốc nhân sự nói riêng (được gọi chung là “cán bộ nhân sự”).
Trong khi yếu tố “có tình” có thể tùy theo nhận định của mỗi người ở từng góc độ, hoàn cảnh khác nhau thì yếu tố “có lý” lại đòi hỏi sự thông hiểu pháp luật một cách tường tận, cũng như vận dụng nó trong tình huống thực tế một cách chuẩn xác. Dưới đây là những sơ suất phổ biến mà các cán bộ nhân sự thường mắc phải khi thực hiện việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) với NLĐ.
Lý do hợp pháp để chấm dứt HĐLĐ
Trong những lý do hợp pháp mà NSDLĐ có thể đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo quy định của Bộ luật Lao động hiện hành, có một số lý do thật sự khó khăn để chứng minh, và cũng là những trường hợp mà NSDLĐ dễ sơ suất nhất.
Trường hợp chấm dứt HĐLĐ với lý do “Thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ”. Sơ suất phổ biến nhất của cán bộ nhân sự là không tiến hành một thủ tục bắt buộc “đào tạo lại NLĐ vào công việc mới trước khi tiến hành thủ tục cho nghỉ việc”. Ngoài ra, không phải bất kỳ việc thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ nào cũng có thể là lý do chấm dứt HĐLĐ, mà chỉ áp dụng đối với việc thay đổi một phần hoặc toàn bộ máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ tiên tiến có năng suất lao động cao hơn; hay thay đổi sản phẩm hoặc cơ cấu sản phẩm dẫn đến sử dụng lao động ít hơn; hay thay đổi cơ cấu tổ chức (nếu có sự sáp nhập, giải thể một số bộ phận của doanh nghiệp).
Tuy nhiên, việc chứng minh một cách rõ ràng là máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ có năng suất lao động cao hơn hay việc thay đổi sản phẩm làm cho việc sử dụng lao động ít hơn là không phải dễ dàng. Ngoài ra, việc thay đổi một người trong một bộ phận nào đó trong doanh nghiệp thường sẽ không được xem như là thay đổi cơ cấu, trừ trường hợp bộ phận đó chỉ có một người phụ trách.
Đối với lý do chấm dứt HĐLĐ là do “Doanh nghiệp sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, chuyển quyền sở hữu, quyền quản lý hoặc quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp”, các cụm từ “chia, tách, sáp nhập, hợp nhất” phải hiểu theo định nghĩa được quy định rõ ràng trong Luật Doanh nghiệp của Việt Nam. Sơ suất chủ yếu của các cán bộ nhân sự ở đây là cho rằng việc phân chia lại quyền quản lý công ty con tại Việt Nam giữa các công ty trong cùng một tập đoàn hay việc sáp nhập, hợp nhất các bộ phận, phòng ban trong cùng một công ty cũng giống nhau nên vận dụng sai để đơn phương chấm dứt HĐLĐ.

Đối với trường hợp chấm dứt HĐLĐ do “NLĐ thường xuyên không hoàn thành công việc theo HĐLĐ”. Sơ suất thường gặp là NSDLĐ căn cứ vào kết quả thực hiện công việc được giao của NLĐ không đáp ứng được mong đợi của mình và cho NLĐ nghỉ việc mà quên rằng pháp luật lao động còn đòi hỏi xa hơn là: (i) mức độ không hoàn thành công việc phải được ghi rõ trong HĐLĐ, thỏa ước lao động tập thể hoặc nội quy lao động của doanh nghiệp; (ii) mức độ không hoàn thành công việc phải là do yếu tố chủ quan; và (iii) NLĐ phải bị lập biên bản hoặc nhắc nhở bằng văn bản ít nhất hai lần trong một tháng mà sau đó vẫn không khắc phục.
Nếu không thỏa mãn toàn bộ ba yêu cầu nêu trên, việc vận dụng lý do này để đơn phương chấm dứt HĐLĐ rất dễ bị sai luật. Đối với trường hợp lấy lý do “NLĐ bị xử lý kỷ luật sa thải”, thường các cán bộ nhân sự dựa vào nội dung của nội quy lao động đã được đăng ký với sở lao động-thương binh và xã hội địa phương để làm cơ sở sa thải NLĐ. Tuy nhiên, nếu trong nội quy lao động không ghi mức giá trị tài sản bị trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp thì sẽ không có cơ sở để áp dụng điều này khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Ví dụ, thông thường cán bộ nhân sự chỉ dựa vào nội quy lao động có ghi “hút thuốc trong nhà máy sẽ bị sa thải” để đuổi việc ngay một nhân viên hút thuốc mà không quan tâm đến việc có phát sinh thiệt hại vật chất của NSDLĐ không. Trong khi đó, việc NLĐ hút thuốc trong doanh nghiệp (nếu chưa gây ra cháy, nổ) là chưa gây thiệt hại về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp nên chưa thể xem là đủ cơ sở để vận dụng để đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Một lý do khác cũng khá khó khăn để chứng minh khi chấm dứt HĐLĐ là “do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của Chính phủ mà NSDLĐ đã tìm mọi cách khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc”.
Sơ suất chủ yếu ở đây là “lý do bất khả kháng khác” phải là trường hợp do yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ cấp tỉnh trở lên, hoặc do dịch họa, do dịch bệnh không thể khắc phục được dẫn đến việc phải thay đổi, thu hẹp sản xuất kinh doanh. Các lý do bất khả kháng khác do NSDLĐ suy diễn, chẳng hạn như công ty mẹ mất khách hàng nên không thể đặt hàng công ty con ở Việt Nam và công ty con rơi vào tình cảnh không thể giải quyết việc làm được… sẽ không thể được xem là lý do bất khả kháng khác để NSDLĐ có thể đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Tuân thủ thủ tục một cách đầy đủ
Nếu sơ suất không mời ban chấp hành công đoàn cơ sở tham gia hay có ý kiến trong bất kỳ khâu quy trình thủ tục nào mà luật yêu cầu phải có sự tham gia hay ý kiến của họ sẽ làm cho cả quá trình chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ trở nên vô hiệu.
Riêng đối với các doanh nghiệp chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ lại càng không khả thi. Trong thực tiễn, việc xin ý kiến của phòng hay sở lao động-thương binh và xã hội địa phương hay ban quản lý các khu công nghiệp về việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ thay thế cho việc tham khảo ý kiến của ban chấp hành công đoàn cơ sở cho một số trường hợp chỉ là biện pháp tình thế và không có cơ sở pháp lý vững chắc để được coi là đúng luật. Một số nơi thì các cơ quan này còn trả lời nhưng ở một số nơi khác thì không, vì các cơ quan này cho rằng họ không có thẩm quyền để trả lời các câu hỏi như vậy.
Tuân thủ một số thủ tục cũng rất quan trọng trong việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ đúng luật, nếu không NSDLĐ có thể bị thua kiện khi vụ việc có phát sinh tranh chấp trước tòa án.
Nếu xét thấy không thể tiến hành việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ thì nên cân nhắc thương lượng với NLĐ để chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn.
Sơ suất phổ biến là các cán bộ nhân sự thường quên thời hiệu để xử lý vi phạm kỷ luật lao động tối đa chỉ là ba tháng kể từ ngày xảy ra hoặc phát hiện vi phạm, và sáu tháng đối với các hành vi vi phạm liên quan đến tài chính, tài sản, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, nếu vụ việc hết thời hiệu xử lý rồi nhưng vẫn áp dụng hình thức kỷ luật sa thải thì khả năng thua kiện là cầm chắc trong tay.
Sơ suất thường gặp khác là cán bộ nhân sự lại tư vấn cho NSDLĐ sa thải NLĐ trong thời gian người đó đang nghỉ ốm, điều dưỡng hoặc nghỉ việc đã được sự đồng ý của NSDLĐ hay đang chờ kết quả điều tra của cơ quan có thẩm quyền đối với hành vi vi phạm, hay NLĐ nữ có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi hay lao động nam phải nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.
Ngoài ra, nhiều lúc cán bộ nhân sự ký quyết định sa thải mà không có giấy ủy quyền hợp pháp của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cũng là một sơ suất phổ biến. Trường hợp khác là xử lý kỷ luật lại không cho phép NLĐ mời luật sư bào chữa, hay trong biên bản xử lý kỷ luật lại không có ý kiến của ban chấp hành công đoàn cơ sở. Một sơ suất khác thường gặp là xử lý kỷ luật lao động khi NLĐ mới chỉ vắng mặt một hai lần, trong khi luật yêu cầu phải đến ba lần mới được quyền xử lý kỷ luật không cần sự hiện diện của đương sự.
Thiết nghĩ việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ đúng tình là một chuyện, áp dụng đúng lý cũng rất quan trọng, nếu không khéo sẽ rất dễ xảy ra tranh chấp không đáng có, dẫn đến thiệt hại về thời gian, tiền bạc và công sức của cả hai phía. Doanh nghiệp nên tham vấn trước với luật sư chuyên về lao động để hiểu rõ về trình tự, thủ tục tiến hành việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ một cách đúng luật.
Nguồn: THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN

MỘT VÀI VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC NGHIÊN CỨU ĐỂ XÂY DỰNG BỘ LUẬT DÂN SỰ

Một trong các nguyên lý cơ bản của pháp luật dân sự là phải ổn định. Vì vậy, thông thường người ta chỉ chọn những vấn đề có tính ổn định, ít bị tác động của các quyết định chính trị, nhất là các quyết định chính trị ngắn hạn để quy định trong Bộ luật dân sự. Điều đó có ích lợi lớn lao cho cho sự ổn định và phát triển xã hội.
1. Năm 1995, Quốc hội đã thông qua và ban hành Bộ luật dân sự năm 1995. Về nội dung, vẫn còn những vấn đề cần bàn và chắc chắn không bao giờ hết các vấn đề cần bàn, nhưng có thể khẳng định việc ban hành Bộ luật dân sự năm 1995 có một ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với chính sách đổi mới của Việt nam. Bộ luật dân sự năm 1995 cần được coi là một trong các tuyên ngôn pháp lý quan trọng nhất của Nhà nước về việc từ bỏ cơ chế quản lý tập trung kế hoặch hoá, phát triển kinh tế thị trường, tôn trọng các nguyên lý cơ bản của đời sống dân sự.[1]
2. Để giải quyết những bất cập của Bộ luật dân sự năm 1995, năm 2004 Chính phủ đã trình Quốc hội việc sửa đổi Bộ luật và Quốc hội đã ban hành Bộ luật dân sự năm 2004, có hiệu lực từ năm 2005. Tuy nhiên, nội dung Chính phủ trình năm 2004 và nội dung Bộ luật dân sự năm 2004 không hoàn toàn giống nhau.[2] Một số đề nghị quan trọng của Chính phủ đã được chấp thuận liên quan đến phạm vi áp dụng, một số vấn đề cụ thể liên quan đến quyền tự do hợp đồng… Một số vấn đề khác cũng quan trọng nhưng lại chưa được chấp nhận. Ví dụ như vấn đề hộ gia đình, tổ hợp tác, giá trị pháp lý của hình thức hợp đồng, thời hiệu…
3. Việc sửa đổi Bộ luật dân sự năm 2004 đã được đặt ra ngay sau 3 năm thực hiện và công việc đang được dự kiến tiến hành trên quy mô lớn. Việc liên tục sửa đổi Bộ luật dân sự trong 15 năm qua không hoàn toàn đồng nghĩa với chất lượng của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 không tốt. Về cơ bản, cả hai bộ luật đều được đánh giá cao. Tuy nhiên một số nguyên lý then chốt và xuyên suốt của pháp luật dân sự cũng như một số vấn đề chi tiết cụ thể không có tính khả thi đã dẫn tới việc cần liên tục sửa đổi Bộ luật dân sự. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về các nghiên cứu cơ bản liên quan pháp luật dân sự.

4. Tham luận này không trình bày những thành tựu cuả nghiên cứu khoa học liên quan đến Bộ luật dân sự đã có mà chỉ đề cập đến một vài hạn chế cũng như thách thức đối với những nhà nghiên cứu về pháp luật dân sự cũng như chính Bộ luật dân sự mới nếu được ban hành.
Xây dưng Bộ luật dân sự là một vấn đề lớn đối với mỗi quốc gia, vì vậy việc nghiên cứu cơ bản là hết sức quan trọng. Có tham gia ít nhiều trong nghiên cứu khoa học liên quan đến pháp luật dân sự và ít nhiều được tham gia vào quá trình soạn thảo Bộ luật dân sự từ năm 2003 đến nay, xin nêu một số nguyên lý cơ bản của Bộ luật dân sự mà khoa học pháp lý của Việt nam chưa giành một sự quan tâm thật sự thích đáng.
5. Một trong các nguyên lý cơ bản của pháp luật dân sự là phải ổn định. Vì vậy, thông thường người ta chỉ chọn những vấn đề có tính ổn định, ít bị tác động của các quyết định chính trị, nhất là các quyết định chính trị ngắn hạn để quy định trong Bộ luật dân sự. Điều đó có ích lợi lớn lao cho cho sự ổn định và phát triển xã hội.
Việc thường xuyên sửa đổi, bổ sung giúp pháp luật cặp nhật những vấn đề thực tiễn. Tuy nhiên lại thể hiện sự không ổn định của hệ thống pháp luật. Pháp luật trong lĩnh vực dân sự luôn đòi hỏi một sự ổn định nhất định.
Câu nói của Lão tử “Trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên” được Nguyễn Hiến Lê chú dịch là “Trị nước lớn như nấu nướng cá nhỏ (nấu cá nhỏ mà lật lên lật xuống, động tới nó nhiều quá, nó sẽ nát; trị nước lớn mà chính lệnh phiền hà, pháp lệnh thay đổi nhiều quá, can thiệp vào việc dân nhiều quá, dân sẽ trá nguỵ, chống đối)”[3].
Hàn Phi Tử giải thích câu này trong mục “Giải lão”: “Nói chung, pháp lệnh mà thay đổi thì việc lợi và hại cũng khác đi, việc lợi và hại khác nhau thì việc làm của dân thay đổi. Việc làm của dân thay đổi gọi là thay đổi nghề. Cho nên cứ lấy lý mà xét thì nếu việc lớn và nhiều mà hay thay đổi thì ít thành công.
Giữ cái vật lớn mà hay dời chỗ nó thì sứt mẻ nhiều, nấu con cá nhỏ mà hay lật đi lật lại thì làm cho nó mất vẻ đẹp. Cai trị một nước lớn mà hay thay đổi pháp luật thì dân khó về việc đó. Do đó ông vua có đạo quý trọng sự yên tĩnh, không làm thay đổi pháp luật. Cho nên nói: “Trị nước lớn giống như là nấu con cá nhỏ””. [4]
Nếu người dân phải đổi nghề nhiều thì dẫn tới (i.) xã hội không có người lành nghề và (ii.) chi phí xã hội sẽ tăng lên do phải đổi nghề. Như vậy là hơn 2300 năm trước người xưa làm luật đã phải quan tâm đến tính ổn định, đơn giản và kinh tế của pháp luật.
Để đạt tính ổn định, có một số nguyên lý cần tuân theo. Thí dụ, theo giáo sư Walter Rolland, các nhà lập pháp Đức đã không quy định những quan hệ xã hội có tính dân sự nhưng có thể thường xuyên bị thay đổi do các quyết định chính trị. Về kỹ thuật, để bộ luật được ổn định, Bộ luật dân sự Đức cũng phải được thể hiện trên nguyên tắc trừu tượng (abstraction)…[5]
Dựa trên các nguyên lý chung đó mà người Đức đã giữ Bộ luật dân sự Đức do Hoàng đế ban hành vào ngày 18 tháng 8 năm 1896, có hiệu lực từ 1 tháng 1 năm 1900 với 2 lần sửa đổi Bộ luật dân sự. Lần đầu tiên vào năm 1977, sửa đổi những quy định về hôn nhân, gia đình xuất phát từ sự thay đổi điều kiện xã hội lúc đó, một tác động từ bên ngoài về đấu tranh đòi sự bình đẳng nam, nữ mà Bộ luật dân sự trước đó chưa đề cập nhiều. Trước đó, đàn ông trong gia đình nhiều quyền hơn phụ nữ. Ngoài ra, sự thay đổi trên thế giới cũng có tác động đến pháp luật.
Lần thứ hai, sửa đổi luật về trái quyền, bắt đầu từ năm 2000 đến 2002, có hiệu lực từ năm 2003, có tính đến sự phát triển pháp luật của thế giới ảnh hưởng đến pháp luật trong nước, trong đó đặc biệt là pháp luật cộng đồng Châu Âu, kéo pháp luật các nước xích lại gần nhau hơn. Đầu tiên là pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã kéo theo sự sửa đổi pháp luật về trái quyền.[6]
Với thẩm quyền giải thích luật, những thẩm phán của Đức có thể xét xử những vấn đề hiện đại trên cơ sở một Bộ luật dân sự cổ điển. Sau khi sửa đổi phần trái vụ, mặc dù phù hợp với thực tiễn hơn nhưng giới luật học của của Đức đã nhận thấy việc sửa đổi đó đang mang đến các rủi ro pháp lý trong thực tiễn vì người dân, các thẩm phán, các luật sư đã quá quen với các điều luật cũ và phải mất một thời gian đáng kể để thích nghi với các quy định mới.
Người Pháp đã giữ Bộ luật dân sự năm 1804 mang tên Bộ luật Napoleon hơn 200 năm với rất ít sửa đổi, bổ sung.[7] Hiện nay người Pháp mới đang có ý định nghiên cứu để sưa đổi cơ bản.
Tương tự như vậy, người Nhật đã giữ Bộ luật dân sự năm 1896 cho đến ngày nay với sửa đổi bổ sung không lớn “bởi trong Bộ luật Dân sự Nhật Bản, hầu như không thấy bóng dáng của cơ quan nhà nước đối với các giao dịch dân sự. Đây là điểm rất khác biệt giữa Bộ luật Dân sự Nhật Bản và Bộ luật Dân sự Việt Nam”[8]
6. Một trong các yếu tố quan trọng làm cho Bộ luật dân sự của Pháp, Đức, Nhật bản… đã trở thành biểu tượng về sự trường tồn, có ảnh hưởng rộng lớn đến pháp luật dân sự thế giới và cũng trở thành kinh nghiệm quan trọng khi xây dựng Bộ luật dân sự của nhiều nước, đó là mối quan hệ của Bộ luật dân sự và đặc trưng văn hoá của từng quốc gia. Bộ luật dân sự chỉ có thể có tính khả thi và có tính trường tồn nếu nó phản ảnh được đặc trưng văn hoá quốc gia đó.
Đây có thể coi là một điểm khá yếu của Bộ luật dân sự Việt nam năm 1995 và Bộ luật dân sự Việt nam năm 2005. Xin đơn cử một ví dụ về vấn đề hộ gia đình.
Theo một lãnh đạo của một Sở Tư pháp tại đồng bằng sông Cửu long, tại trụ sở sở tư pháp, một đôi vợ chồng đã phản đối quyết liệt việc khi vợ chồng họ thực hiện một giao dịch tài sản phải có sự đồng ý của con dâu.[9]
Phong tục của người Việt không quen với việc bố mẹ quyết định việc gì liên quan đến tài sản lại buộc phải hỏi ý con cái, nhất là khi con cái vẫn sống chung cùng cha mẹ, ngay cả trong trường hợp con cái đã có thu nhập rất lớn hơn cha mẹ.
Theo phong tục của người Việt thì “dâu là con, rể là khách”. Con dâu chắc chắn là thành viên của gia đình, nhưng quy định của pháp luật dẫn tới việc bố mẹ chồng phải hỏi con cái, nhất là con dâu thì e rằng phong tục của người Việt không thể chấp nhận.
Thông thường cha mẹ chỉ hỏi con cái để chứng tỏ mình tôn trọng con cái khi đã trưởng thành và cũng muốn con cái tự tin hơn trong cuộc sống để đi đến tự lập hoặc hỏi để có thể cân nhắc thêm quyết định của mình.
Trong các gia đình có nền nếp, con cái đã trưởng thành vẫn thường hỏi ý kiến cha mẹ về các quyết định quan trọng của mình, ngay cả trường hợp đã có gia đình riêng và ở riêng. Câu hỏi đôi khi chỉ mang tính thể hiện lòng kính trọng cha mẹ, để tham vấn thêm, nhưng đó là một nét văn hoá rất Việt nam.
Điều 107[10] giao cho chủ hộ là người đại diện của hộ gia đình nhưng không quy định ai là chủ hộ, xác định chủ hộ theo luật, phong tục, hay theo thoả thuận.
Theo pháp luật, khái niệm chủ hộ chỉ tìm thấy trong quyển sổ hộ khẩu.[11] Trong thực tiễn, những người có tên trong một quyển sổ hộ khẩu không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với một gia đình, hoặc ngược lại. Chính sách quản lý hộ khẩu đã dẫn tới tình trạng cho nhập hộ khẩu nhờ như ở Bình dương và nhất là các thành phố lớn như Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh, và hậu quả là những người nhập hộ khẩu nhờ có tên trong sổ hộ khẩu, nhưng không phải thành viên gia đình. Chính sách giá điện hiện hành dẫn tới việc một số gia đình đã tách sổ hộ khẩu để giảm tiền sử dụng điện hàng tháng, nhưng vẫn là một gia đình.[12]
Mặc dù có những ngoại lệ, nhưng nói chung phong tục của người Việt hiện nay chỉ có khái niệm Chủ gia đình. Chủ gia đình thường là người cao tuổi hơn, có khả năng và phải quán xuyến những việc chung. Phong tục này gần gũi với quan niệm rất quen thuộc của người Việt là: “Kính lão đắc thọ” và: “Khôn không đến trẻ, khoẻ không đến già”.
Chủ gia đình không phải một khái niệm pháp lý, đó là một trật tự tồn tại đời này qua đời khác và được mọi người tôn trọng. Gia đình nào để mất điều đó được hiểu là gia phong không còn nữa.
Tôn trọng và bảo vệ phong tục này, Quốc triều hình luật, Quyển III, Điều 9 quy định: “Những kẻ hàng dưới còn ít tuổi cùng ở với tôn trưởng, mà tự ý dùng tiền của, thì xử phạt 80 trượng và bắt trả lại tiền của cho người trên”. Quyển III, Điều 20 còn quy định:“Con cháu không có giấy quan cấp cho được thay ông cha, hưởng dân đinh ruộng đất mà tự tiện sai dân đinh cày cấy ruộng đất ấy, thì xử biếm một tư và bắt nộp vào kho gấp đôi số tiền công thuê dân đinh và tiền hoa màu ruộng đất. Người tố cáo được hưởng một phần mười số tiền ấy”[13].
Tương tự như vậy, Bộ luật Gia long quy định: “Phàm không phải ông bà cha mẹ cho phép, mà con cháu lập riêng sổ hộ tịch, chia gia sản, thì phải phạt 100 trượng”[14].
Về vấn đề này, Dân luật bắc kỳ năm 1931 có Thiên thứ VIII – Quyền người gia trưởng.[15] Người gia trưởng là người được quyết định những vấn đề thuộc gia đình. Điều 207 quy định một cơ chế bảo vệ rất rõ ràng: “Người làm con, suốt cả đời phaỉ hiếu thuận cung kính, làm vinh dự cho cha mẹ ông bà. Lại phải cấp dưỡng cho cha mẹ ông bà. Đạo hiếu cấm con cháu không được đem thưa cha mẹ ông bà tại trước toà án. Không có phép cha, thì không được bỏ nhà.
Cha mẹ còn sống thì con phải thuộc quyền cha, và cứ lý thì không được có tài sản riêng; trừ khi đã thành niên được phép ra ở riêng, hoặc khi đã thoát phụ quyền được phép tự lập gia thất riêng thì không kể”.
Bộ dân luật Việt nam cộng hoà năm 1972 quy định: “Con cái dầu đến tuổi nào cũng phải tôn kính cha mẹ”.[16] “Con cái ở dưới quyền cai quản của cha mẹ cho đến năm 21 tuổi, hay đến lúc đã được thoát quyền”.[17]
Điều 109 năm 2005 quy định về nguyên tắc hành xử đối với tài sản chung của hộ gia đình.[18] Các nguyên tắc có vẻ rõ ràng, nhưng không thể thực hiện vì đời sống gia đình cần những sự tiện lợi, hoà thuận trong sự chấp nhận quyết định của người khác. Luật sư Trương thanh Đức có lý khi cho rằng các nhà làm luật đã vô tình “công ty hoá” gia đình của người Việt.[19]
Phong tục hay luật cổ không phải khi nào cũng tốt trong một xã hội mới. Tuy nhiên, nếu vấn đề đó không được tham khảo một cách thấu đáo thì chắc chắn pháp luật rất khó khả thi và có thể mang một kết quả ngược lại với những ước muốn tốt đẹp mà đạo luật đó đặt ra.
Về vấn đề này, người Pháp và người Đức hay người Nhật đều đã rất thành công, mặc dù họ đã lựa chọn hai phương thức rất khác nhau để xây dựng Bộ luật dân sự.
7. Về phương thức, người Pháp đã chọn phương thức institutiones còn người Đức chọn phương thức patekten để xây dựng Bộ luật dân sự. Đây là hai phương thức cơ bản mà hầu như tất cả các nước đều tham khảo khi xây dựng Bộ luật dân sự. Việt nam hầu như không có nghiên cứu gì về vấn đề này khi xây dựng Bộ luật dân sự.[20]
Một kinh nghiệm quý báu mà Việt nam nên tham khảo đó là quá trình ban hành Bộ luật dân sự của Nhật bản. Nhật bản quyết tâm xây dựng bằng được Nhà nước hiện đại văn minh vì Nhật bản nhận thấy cách duy nhất để Nhật bản không trở thành thuộc địa của Châu Âu đó là xây dựng một quốc gia lớn mạnh không khác gì Châu âu. Trong 3 năm, Nhà nước Minh trị đã có nhiều biện pháp như: thuê giáo viên, chuyên gia nước ngoài, cử người trẻ đi học để làm sao cố gắng du nhập tinh hoa của các nước phát triển Châu âu. Do đó nước Nhật đã dịch rất nhiều luật của Châu Âu để cho luật pháp cũng tương đồng với luật Châu Âu. Thời gian đó Nhật bản phải ký rất nhiều thỏa thuận bất lợi, như không được phép xét xử những người Châu âu.
Nhật bản nhận ra là cần thiết phải xây dựng các Bộ luật nên đã nhờ một người Pháp cố vấn xây dựng BLDS theo kiểu của Pháp, áp dụng phương pháp institutiones và thuê chuyên gia của Đức để cố vấn xây dựng Bộ luật thương mại như của Đức. Tuy nhiên sau khi Bộ luật dân sự được xây dựng, nếu áp dụng trong thực tế nó sẽ làm mất đi tất cả tính truyền thống, đạo đức, chính trị. Vì có nhiều ý kiến phản đối việc xây dựng Bộ luật dân sự này nên người ta cho rằng những quy định này không phù hợp với văn hoá xã hội Nhật bản.
Sau đó, 3 người Nhật bản bắt tay xây dựng Bộ luật dân sự mới. Đấy cũng là thời điểm dự thảo dầu tiên Bộ luật dân sự Đức ra đời (1896). Khi nghiên cứu luật Anh Mỹ thì người ta nhận thấy đó không phải là luật thành văn. Khi nghiên cứu dự thảo đầu tiên của Bộ luật dân sự Đức người ta thấy rằng nó rất phù hợp với xã hội Nhật bản khi đó.
Như vậy xét về mặt lịch sử, Bộ luật dân sự Nhật bản đầu tiên đã theo phương thức institutiones của Pháp nhưng sau đó do sự phản đối từ nhiều phía nên Bộ luật dân sự Nhật bản sau này đã theo phương thức của Bộ luật dân sự Đức đó là pandekten. Cấu trúc phần chương của Bộ luật dân sự Nhật bản giống của Đức tuy nhiên nó không phải là bê nguyên xi Bộ luật dân sự của Đức.
Ví dụ điển hình là vấn đề đăng ký. Ở Đức cơ chế đăng ký rất chặt chẽ – điều kiện cho giao dịch vật quyền có điều kiện. Trong Bộ luật dân sự Đức người ta phân biệt rõ vật quyền và trái quyền, trong đó chế độ đăng ký là rất quan trọng, thời điểm chuyển giao vật là thời điểm đăng ký.
Bộ luật dân sự Nhật bản hoàn toàn không đi theo hướng đó, thời điểm ký hợp đồng chính là thời điểm chuyển giao vật quyền còn chế độ đăng ký chỉ có tác dụng đối kháng với bên thứ ba chứ không phải điều kiện để một giao dịch có hiệu lực. Vì thế trong từng nội dung điều khoản, phần đăng ký lại chịu ảnh hưởng Bộ luật dân sự Pháp chứ không phải của Đức.
Có phải người Nhật bản không hiểu quan điểm luật của Đức nên đã theo quan điểm của Pháp hay không? Lý do đó là hành vi vật quyền và trái quyền là khác nhau rõ ràng. Tuy nhiên, người ta cũng nhận thấy năng lực người đăng ký viên và cơ chế đăng ký của Nhật bản chưa đủ cao và phù hợp như ở Đức. Như vậy trong từng điều khoản người ta luôn chú ý đến tình hình xã hội cụ thể. Nếu tìm hiểu sâu hơn có thế thấy có nhiều điều luật trong Bộ luật dân sự Nhật bản theo luật của các nước common law. Như vậy vỏ bề ngoài của Bộ luật dân sự Nhật bản thì như của Đức nhưng nội dung bên trong thì có những điểm khác.
Bộ tư pháp Campuchia nhờ chuyên gia Nhật bản thông qua JICA xây dựng giúp Bộ luật dân sự Campuchia, quá trình kéo dài 6 năm. Khi nghiên cứu, các chuyên gia Campuchia thấy rằng Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự của Pháp làm được dịch sang tiếng Khơme và giải thích cho Campuchia trong vòng 3 ngày và kết quả là nó không áp dụng được gì cả. Người Pháp xây dựng Bộ luật hình sự cho Campuchia trên cơ sở xã hội Pháp mà không có điều tra, tìm hiểu cụ thể về đời sống xã hội Campuchia hiện tại.
Chuyên gia Nhật bản đã tìm hiểu đời sống xã hội và những mong muốn của người Campuchia, dịch và giới thiệu Bộ luật dân sự của Pháp, Đức. Các chuyên gia cũng trao đổi với những chuyên gia Tòa án, Bộ Tư pháp Campuchia về mong muốn hiện tại và tương lai của họ. Qua qúa trình trao đổi cho thấy rằng Campuchia đã có một luật dân sự trước đó có ảnh hưởng của luật Pháp. Đã có điều tra xã hội học trên quy mô lớn và nhận thấy có những phần nào của những quy định cũ mà ảnh hưởng của luật Pháp vẫn nên được sử dụng.
Mặc dù Nhật bản theo phương thức pandekten như của Bộ luật dân sự Đức nhưng do nhận thấy nếu theo phương thức institutiones như của Pháp thì sẽ phù hợp với xã hội Campuchia hơn nên chuyên gia đã đề nghị xây dựng theo phương thức của Bộ luật dân sự Pháp.
Bộ luật dân sự Campuchia vừa được ban hành, chưa được kiểm nghiệm nên không thể đánh giá tính khả thi của nó. Tuy nhiên đã có những ý kiến đánh giá khác nhau. Vì vậy, khi đặt vấn đề chuyên gia Nhật bản trực tiếp soạn thảo Bộ luật dân sự cho Việt nam thì các chuyên gia Nhật bản cho rằng không nên làm điều đó vì các chuyên gia Nhật bản cho rằng chuyên gia Nhật bản không thể hiểu văn hoá và xã hội Việt nam bằng các chuyên gia Việt nam được.[21]
8. Tính kế thừa và pháp điển hoá của Bộ luật dân sự. Là một lĩnh vực quan trọng nhất của luật tư, các Bộ luật dân sự thành công đều là các công trình pháp điển hoá vĩ đại và công việc pháp điển hoá bao giờ cũng mang trong nó tính kế thừa các quy định trước đó.
Một trong các thành công quan trọng nhất của Bộ luật dân sự Pháp đó là “sức cuốn hút của phương pháp pháp điển hoá kiểu pháp”[22]. Những người làm nên thành công của Bộ luật dân sự Pháp rất ít tự nghĩ ra các quy định mà chủ yếu họ đã pháp điển hoá các quy định, tập quán, thông lệ… sẵn có. Điều đó làm cho Bộ luật gần gũi với đời sống dân chúng, có tính khả thi và trở nên vĩ đại.
Tương tự như vậy, Bộ luật dân sự Đức cũng là một công trình pháp điển hoá vĩ đại các đạo luật trước đó cùng các tập quán, thông lệ… trong đó có Bộ luật dân sự Phổ năm 1794 với hơn 17.000 điều.[23]
Trong quá trình xây dựng Bộ luật dân sự Việt nam, các luật cổ như Luật Hồng đức, Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia long), Dân luật Bắc kỳ 1931, Bộ dân luật Việt nam cộng hoà 1972 hầu như không được tổ chức nghiên cứu một cách hệ thống. Chính vì vậy, tính kế thừa và pháp điển hoá của Bộ luật dân sự Việt nam hiện nay rất bị hạn chế.
9. Việc học tập kinh nghiệm nước ngoài là rất quan trọng trong quá trình xây dựng Bộ luật dân sự. Về vấn đề này, Chính phủ Việt nam đã nhận được sự giúp đở của khá nhiều dự án quốc tế và dự án nước ngoài như UNDP, Nhà pháp luật Việt pháp, JICA, Star Việt nam, GTZ, KAS…
Sự hỗ trợ của các dự án rất tích cực, tuy nhiên nhìn từ giác độ nghiên cứu khoa học thì người Việt nam khá thụ động khi tiếp nhận các kết quả. Việc nghiên cứu các Bộ luật dân sự nổi tiếng chủ yếu thông qua sự trình bày của các chuyên gia nước ngoài trong các cuộc toạ đàm và các cuộc trao đổi trực tiếp theo kiểu ad hoc. Hầu như không có các nghiên cứu có tính hệ thống, hàn lâm và vì thế thiếu các luận điểm có tính phương pháp luận.
Việc dịch thuật cũng chưa được quan tâm thích đáng. Duy nhất Nhà pháp luật Việt pháp dịch toàn văn Bộ luật dân sự Pháp năm 1995, NXB Chính trị quốc gia xuất bản năm 1998, NXB tư phápxuất bản năm 2005. Bộ luật dân sự Đức không được dịch chính thức và toàn bộ, chỉ có một số phần được dịch do nhu cầu tra cứu của nhóm biên tập. Gần đây, Dự án JICA có dịch Bộ luật dân sự Nhật bản nhưng chưa phát hành và đến năm 2010 khi có yêu cầu thì Vụ pháp luật dân sự kinh tế mới đóng thành quyển cho dễ theo dõi. Việc không dịch thuật đầy đủ này là minh chứng cho nhận định về việc thiếu các nghiên cứu một cách cơ bản pháp luật dân sự ở Việt nam trong những năm qua.
Có lẽ vì những lý do đó mà sau khi Bộ luật dân sự Việt nam được ban hành thì người ta rất khó nhận biết Bộ luật dân sự Việt nam chịu ảnh hưởng của Bộ luật sự nào. Nhận xét về vấn đề này TS. Pierre Bezard cho rằng: “Sau khi giành được độc lập, nhiều quốc gia thuộc địa cũ vẫn duy trì những ảnh hưởng sâu đậm của pháp luật Pháp. Thậm chí một số nước còn xây dựng những bộ luật của họ trên cơ sở học tập mô hình pháp luật của Pháp…. Đối với nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam thì sự đoạn tuyệt với pháp luật Pháp là rất rõ nét và sâu sắc”.[24]
10. Nghiên cứu việc tổ chức xây dựng Bộ luật dân sự là một trong những yếu tố quan trọng cho sự thành công của Bộ luật dân sự. Bộ luật dân sự do Nhà nước ban hành, nhưng thực sự nó hình thành của bắt nguồn từ các trường đại học.
Bộ luật dân sự Pháp, còn goi là Bộ luật Napoleon không phải do Napoleon viết. Người viết Bộ luật là 4 thành viên của một Uỷ ban của các nhà chuyên môn, đó là Tronchet, Portails, Bigot de Preameneu và Malleville. Đó là các chuyên gia về dân sự. Dự luật được viết trong 2 năm. Toà án tối cao và các toà phúc thẩm là người phản biện.
Về cách thức, Bộ luật dân sự Đức và Bộ luật dân sự Nhật bản cũng được xây dựng tương tự. Nhà nước lập ra các uỷ ban phụ trách công việc, nhưng việc soạn thảo là do các chuyên gia. Thường là các giáo sư đầu ngành về dân sự. Họ không phải là các công chức.
Ở Việt nam, việc soạn thảo do các công chức thực hiện. Khi đã là công chức thì không thể chuyên nghiệp về phương diện chuyên môn. Mặt khác, những ám ảnh về nhiệm vụ quản lý nhà nước của công chức sẽ làm ảnh hưởng đến tính chất “tư” của Bộ luật dân sự.
Hà nội, tháng 2 năm 2011

[1] Nước Nga và Trung quốc sau đổi mới chưa ban hành Bộ luật dân sự sớm bằng Việt nam. Hiện tại, Trung quốc đang ban hành các đạo luật đơn hành như Luật hợp đồng, Luật về tài sản.
[2] Có thể tham khảo các Tờ trình của Chính phủ năm 2003 và năm 2004.
[3] . Lão Tử – Đạo đức kinh, Nguyễn Hiến Lê chú dịch và giới thiệu, NXB Văn hoá, Hà nội 1998, tr. 251.
[4] Hàn Phi Tử, NXB Văn học, Hà nội – 2001, Người dịch Phan Ngọc, Tr. 182
[5] Xem thêm: Tổng thuật kết quả Tọa đàm ngày 21 và 22 tháng 10 năm 2010 một số vấn đề về cấu trúc Bộ luật dân sự và vật quyền, Bộ tư pháp và IRZ tổ chức tại Hà nội.
[6] Xem thêm: Tổng thuật kết quả Tọa đàm ngày 21 và 22 tháng 10 năm 2010 một số vấn đề về cấu trúc Bộ luật dân sự và vật quyền, Bộ tư pháp và IRZ tổ chức tại Hà nội.
[7] . Xem thêm: Tham luận Hội thảo kỷ niệm 200 năm Bộ luật dân sự Pháp, Hà nội, 3 – 5 tháng 11 năm 2004, Nhà Pháp luật Việt – Pháp.
[8] Xem thêm: Nguyễn Văn Cương, Quan điểm của Nhật bản về luật dân sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 06/2001
[9]. Sự bất bình này xuất phát từ điều 109 BLDS năm 2005: 1. Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thoả thuận. 2. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.
[10] Điều 107. 1. Chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Cha, mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ.Chủ hộ có thể uỷ quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện của hộ trong quan hệ dân sự. 2. Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình.
[11]. Tác giả chưa khảo cứu đầy đủ vấn đề này.
[12]. Theo chính sách giá điện bậc thang hiện nay (chính sách tiết kiệm năng lương), giá điện sử dụng càng nhiều thì đơn giá càng cao, vì vậy nhiêu gia đình đã tách thành nhiều hộ dùng điện để giảm chi phí cho gia đinh. Để thực hiện tiết kiệm năng lượng, các nước phát triển sử dụng chính sách tính giá điện theo giờ cao điểm giá cao và giờ thấp điểm giá thấp.
[13] Xem thêm: Quốc triều hình luật.
[14] Bộ luật còn có tên khác là Hoàng việt luật lệ.
[15] Dân luật Bắc kỳ 1931, từ điều 204 đến điều 220.
[16] Điều 265, Bộ dân luật 1972.
[17] Điều 266, Bộ dân luât 1972.
[18] Điều 109. 1. Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thoả thuận.
2. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.
[19]. Xem thêm: Luật sư Trương Thanh đức, Những đám mây bao vây quyên sở hữu”, phát biểu tại Hội thảo ngày 29/9/2010 do Bộ tư pháp và JICA tổ chức.
[20]. Xem thêm: Báo cáo kết quả Tọa đàm do Bộ tư pháp và JICA tổ chức từ 27 đến 31 tháng 8 năm 2010 về những vấn đề cần sửa đổi bổ sung trong Bộ luật Dân sự 2005.
[21] Xem thêm: Báo cáo kết quả Tọa đàm do Bộ tư pháp và JICA tổ chức từ 27 đến 31 tháng 8 năm 2010 về những vấn đề cần sửa đổi bổ sung trong Bộ luật Dân sự 2005.
[22] Xem thêm: Guy Cavinet, Báo cáo dẫn đề Hội thảo kỷ niệm 200 năm Bộ luật dân sự Pháp, Nhà pháp luật Việt pháp, 3-5/11/204.
[23] GS. Michel Grimaldi, Tham luận Hội thảo 200 năm Bộ luật dân sự Pháp, Hà nội tháng 11 năm 2004, Nhà pháp luật Việt-Pháp, trang 95.
[24] Xem thêm: TS. Pierre Bezard, Hai trăm năm Bộ luật dân sự Pháp và ảnh hưởng tới Bộ luật dân sự Việt nam. Tham luận Hội thảo 200 năm Bộ luật dân sự Pháp, Hà nội tháng 11 năm 2004, Nhà pháp luật Việt-Pháp.
Nguồn: TỌA ĐÀM “MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG TRONG SỬA ĐỔI CƠ BẢN BỘ LUẬT DÂN SỰ”, BỘ TƯ PHÁP VÀ JICA PHỐI HỢP TỔ CHỨC. HÀ NỘI. 2/3/2011