Chủ Nhật, 27 tháng 2, 2011

BẢO VỆ NHÀ ĐẦU TƯ NHỎ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Ngày 9/9/2010, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2010 – 2011, trong đó Việt Nam được thăng hạng 16 bậc từ vị trí 75/133 lên vị trí 59/139. Mặc dù vậy, có nhiều yếu tố Việt Nam ở gần cuối bảng xếp hạng của WEF như mức độ bảo vệ nhà đầu tư đứng thứ 133/139, gánh nặng thủ tục hành chính (120/139), cân bằng ngân sách (126/139)… Chính mức độ bảo vệ nhà đầu tư thấp cũng là một yếu tố khiến Việt Nam bị giảm điểm trong xếp hạng môi trường kinh doanh do Tạp chí Forber công bố mới đây. Ở yếu tố này trong xếp hạng của Forber, Việt Nam xếp 125/128 nền kinh tế được đưa vào báo cáo.
Trong các Báo cáo Môi trường kinh doanh được WB và IFC công bố thời gian qua, Việt Nam thường xuyên đứng cuối bảng về mức độ bảo vệ nhà đầu tư. Bản Báo cáo đánh giá chỉ số mức độ bảo vệ nhà đầu tư được tổng hợp từ 3 chỉ số: mức độ công khai thông tin, trách nhiệm của thành viên HĐQT (trách nhiệm cá nhân) và mức độ dễ dàng mà cổ đông có thể kiện (khả năng cổ đông có thể kiện thành viên HĐQT và Ban điều hành khi quản lí sai trái) (xem hộp 1). Theo chỉ tiêu bảo vệ nhà đầu tư, Việt Nam tiếp tục nằm ở nhóm cuối, đứng thứ 171/183 trong năm 2009 và 172/183 trong năm 2010.
Rõ ràng bảo vệ nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán (TTCK) nói riêng là vấn đề nóng bỏng, cấp thiết cần có giải pháp thích hợp để nâng cao thứ hạng và cải thiện hình ảnh của Việt Nam trước con mắt nhà đầu tư nước ngoài.
Hộp 1:
Theo các báo cáo của WB và IFC về môi trường kinh doanh của các quốc gia và vùng lãnh thổ, mức độ bảo vệ nhà đầu tư biểu hiện ở 3 giác độ:
- Mức độ công bố thông tin biểu hiện qua: (1) những hoạt động mà công ty có đủ thẩm quyền ra quyết định; (2) bắt buộc công bố thông tin tức thời về giao dịch có giá trị lớn hơn 10% tổng tài sản của công ty; (3) công bố thông tin trong báo cáo thường niên; (4) ban giám đốc báo cáo Hội đồng quản trị về giao dịch; (5) yêu cầu một kiểm toán độc lập kiểm tra giao dịch trước khi thực hiện.
- Trách nhiệm của ban giám đốc thể hiện qua: (1) cổ đông có thể buộc tội giám đốc chịu trách nhiệm về thiệt hại do giao dịch gây ra; (2) Cổ đông có thể buộc người có trách nhiệm trong công ty chịu trách nhiệm về thiệt hại do giao dịch gây ra; (3) Tòa án có thể làm vô hiệu các giao dịch khi các cổ đông thắng kiện; (4) Giám đốc phải bồi thường các thiệt hại cho công ty khi cổ động thắng kiện; (5) Giám đốc phải hoàn lại lợi nhuận từ giao dịch khi cổ đông thắng kiện; (6) Giám đốc có thể bị phạt tiền hoặc bị giam khi bị kết tội; (7) Cổ đông có thể trực tiếp hoặc gián tiếp kiện lên tòa án đối với các thiệt hại gây nên cho công ty.
- Mức độ dễ dàng để cổ đông có thể kiện ra tòa án thể hiện qua: (1) Các loại giấy tờ liên quan đến giao dịch cung cấp cho cổ đông tại phiên tòa; (2) Cổ đông có thể trực tiếp giám sát bị đơn và nhân chứng tại phiên tòa; (3) Cổ đông có thể có thông tin từ bị đơn mà không cần nêu cụ thể từng loại giấy tờ; (4) Cổ đông nắm giữ 10% cổ phiếu hoặc ít hơn có thể yêu cầu cơ quan điều tra của chính phủ điều tra về giao dịch mà không cần kiện ra tòa án; (5) Cổ đông nắm giữ 20% vốn hoặc ít hơn có quyền thẩm tra về giao dịch trước khi kiện ra tòa án; (6) Tiêu chuẩn về chứng cớ đối với các vụ án dân sự thấp hơn các chứng cứ về án hình sự.
Tất cả 3 tiêu chí trên được chấm điểm từ 1-10, số điểm càng cao thì mức độ bảo vệ nhà đầu tư càng cao. Mức độ bảo vệ nhà đầu tư tổng hợp là trung bình cộng của 3 điểm thành phần này.
(Nguồn: vneconomy.com.vn)

Một số quy định pháp lý về bảo vệ nhà đầu tư ở Việt Nam
Các quy định về bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư ở Việt Nam được quy định ở Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán. Về mặt pháp lý, các nội dung đều được thể hiện trong các khung pháp lý khá chặt chẽ mà ngay từ khi soạn thảo, các nhà làm luật đã tuân thủ các quy định chung để bảo vệ nhà đầu tư nhỏ. Tuy nhiên, nhận thức về vấn đề này ở nhiều khía cạnh còn sơ khai, việc tuân thủ chưa chặt chẽ ở cả công ty đại chúng lẫn các thành viên thị trường, thể hiện ở nhiều giác độ:
- Công khai thông tin
+ Tổ chức phát hành chuẩn bị hồ sơ thiếu chính xác, không bổ sung các sự kiện mới phát sinh, thời hạn không đúng theo quy định, phát hành không đúng nội dung trong bản đăng ký phát hành, bản cáo bạch không chi tiết… Các bản báo cáo tài chính chưa công bố đầy đủ thông tin mà nhà đầu tư cần và cơ quan quản lý yêu cầu.
+ Tổ chức niêm yết thường nộp báo cáo tài chính muộn, sự vi phạm việc công bố thông tin của các cổ đông nội bộ trong mua bán cổ phiếu quỹ… còn khá phổ biến… Chất lượng website chưa cao, chưa chú trọng kênh thông tin điện tử này tới đông đảo nhà đầu tư nhỏ lẻ.
+ Một số công ty đại chúng phát hành thêm cổ phần ra công chúng nhưng không xin phép UBCKNN, không thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, không đủ điều kiện phát hành ra công chúng song vẫn phát hành, không có phương án phát hành theo quy định của Luật Chứng khoán…
+ Công ty chứng khoán tuân thủ việc công bố thông tin khá đều đặn, nhưng những thông tin liên quan đến xung đột lợi ích giữa công ty và khách hàng chưa kịp thời và chưa đầy đủ. Các thông tin về việc thực hiện các quy định về an toàn tài chính của công ty chứng khoán, về thực hiện quản lý công ty trong sổ sách chứng từ, về các quy định trong thực hiện đạo đức nghề nghiệp… chưa đầy đủ.
+ Các bản phân tích, dự báo thị trường xuất hiện khá đều đặn và ngày càng nâng cao chất lượng. Tuy nhiên, cùng với thị trường, tính xác thực, tính vô tư và chính xác của các bản phân tích này chưa đạt độ tin cậy. Chưa có các chuyên gia phân tích cao cấp xác nhận các bản phân tích này trước khi công bố ra công chúng.
+ Việc theo dõi, kiểm tra các thông tin sau khi công bố trên các phương tiện đại chúng gần như buông lỏng. Vì vậy, các ảnh hưởng của thông tin sai lệch tới nhà đầu tư nhỏ lẻ không được kiểm soát và điều chỉnh kịp thời.
(Xem hộp 2)
Hộp 2:
Các chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong thị trường chứng khoán đã được chỉnh sửa, bổ sung trong Nghị định 85/2010/NĐ-CP ( có hiệu lực từ ngày 20/9/2010) , theo đó, nhiều mức phạt đã được nâng lên.
- Phạt tiền từ 10-30 triệu đồng đối với tổ chức, cá nhân công bố thông tin trên các phương tiện cốn bố thông tin không đúng quy đinh, người công bố thông tin không đủ thẩm quyền, không lập trang thông tin điện từ và cập nhật hthông tin, không bảo quản, lưu giữ thông tin;
- Phạt tiền từ 50-90 trịêu đồng đối với các tổ chức, cá nhân thực hiện công bố thông tin không đúng theo quy định, kịp thời, chính xác;
- Phạt tiền từ 30-50 triệu đồng đối với cổ đông lớn, cổ đông nội bộ thực hiện giao dịch nhưng không báo cáo đúng thời hạn quy định;
- Phạt tiền từ 150-200 triệu đồng đối với cá nhân, tổ chức sử dụng, tiết lộ thông tin nội gián để thực hiện mua, bán chứng khoán;
- Phạt tiền từ 200- 300 triệu đồng đối với cá nhân, tổ chức thông đồng trong giao dịch chứng khoán nhằm thao túng giá chứng khoán;
- Phạt tiền 500 triệu đồng đối với cá nhân, tổ chức tham gia vào các hoạt động gian lận, tạo dựng thông tin sai sự thật hoặc bỏ sót các thông tin cần thiết gây hiêu nhầm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến hoạt động phát hành, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán và các dịch vụ chứng khoán, công bố thông tin sai lệnh nhằm lôi kéo, xúi giục việc mua, bán chứng khoán hoặc không công bố kịp thời, đầy đủ thông tin về các sự kiện xảy ra có ảnh hưởng đến giá chứng khoán trên thị trường
Ngoài ra, Nghị định quy định hình thức xử phạt bố sung là tịch thu toàn bộ khoản thu trái pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm.
( Nguồn: Nghị định 85/2010/NĐ-CP ( có hiệu lực từ ngày 20/9/2010)
- Vấn đề quản trị công ty còn yếu kém
Mặc dù Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định 12/2007 ngày 13/3/2007 về việc quản trị công ty, nhiều công ty đại chúng đã quan tâm nhiều hơn đến thực hiện nghĩa vụ bảo vệ nhà đầu tư nhỏ, song cho đến nay, vẫn là khoảng trống to lớn trên thực tế.
+ Luật Chứng khoán quy định công ty chứng khoán có nghĩa vụ “mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho cán bộ quản lý và nhân viên hành nghề tại công ty hoặc trích lập quỹ bảo vệ nhà đầu tư do sơ suất kỹ thuật và sơ suất của nhân viên trong công ty”. Tuy nhiên, quy định trích lập quỹ bảo vệ nhà đầu tư chưa được thực hiện, UBCKNN cũng chưa phạt công ty chứng khoán không thực hiện nghĩa vụ lập quỹ bảo vệ nhà đầu tư.
+ Vấn đề vi phạm các quy định về người liên quan, người có quyền lợi liên quan… ở các công ty đại chúng trong các giao dịch ủy quyền, trong góp vốn vào các công ty con là phổ biến.
+ Việc quan tâm tới bổ sung điều lệ công ty, nghị quyết đại hội đồng cổ đông trong đại hội rất ít (theo nghiên cứu của CIEM, chỉ có khoảng 8% có bổ sung). Tiếng nói của cổ đông nhỏ là gần như không có.
+ Vấn đề lương, thưởng của thành viên Hội đồng quản trị, ban lãnh đạo… mặc dù vẫn thông qua đại hội đồng cổ đông, song, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng lợi nhuận của công ty, gây ảnh hưởng đến cổ tức của cổ đông nhỏ.
+ Vấn đề công bố danh sách và tỷ lệ các thành viên Hội đồng quản trị, ban điều hành, kế toán trưởng, cán bộ công bố thông tin, thư ký công ty… đã có chứng chỉ về quản trị công ty do UBCKNN cấp ít được thực hiện, một phần do các công ty đại chúng gần như không biết tới quy định này, hoặc là không tuân thủ. Trong khi đó, chế tài cho vấn đề này gần như chưa thể hiện từ phía cơ quan quản lý.
+ Hoạt động quan hệ cổ đông, quan hệ công chúng đã được nhiều công ty đại chúng chú ý thực hiện, song phần lớn các công ty chưa thật sự quan tâm, thể hiện ở các kênh thông tin nghèo nàn, thông tin không đầy đủ và không cập nhật, cán bộ chuyên trách về quan hệ công chúng chưa đầy đủ.
+ Hiện tượng vi phạm quyền lợi của nhà đầu tư nhỏ tại các kì họp Đại hội đồng cổ đông thường niên là cả một câu chuyện dài hằng năm. Những vi phạm này thể hiện ở nhiều khía cạnh như quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần đối với cổ đông khi đi dự đại hội, việc ra thông báo họp đại hội quá ngắn so với yêu cầu quy định, hình thức, nội dung thông báo, nội dung họp…
+ Việc công ty niêm yết phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, song chậm trễ trong việc niêm yết các cổ phiếu lên sàn. Với điều kiện TTCK Việt Nam đang ở giai đoạn trầm lắng thì điều này gây bất lợi cho cổ đông do giá cổ phiếu giảm mạnh. Các thủ tục niêm yết đã được UBCKNN, Trung tâm lưu ký quy định, song thực tế nảy sinh chủ yếu thuộc về phía doanh nghiệp như chưa chủ động thực hiện các thủ tục hành chính để niêm yết với UBCKNN, Trung tâm lưu ký.
Một sô giải pháp bảo vệ nhà đầu tư nhỏ
Đối với UBCKNN
Ủy ban Chứng khoán đã đưa các quy định về bảo vệ nhà đầu tư vào Luật Chứng khoán và các văn bản dưới luật khá cụ thể. Xuất phát từ thực tế thị trường, Ủy ban có thể có những điều chỉnh và bổ sung sau đây:
- Thống nhất mẫu hợp đồng giao dịch cho các công ty chứng khoán thực hiện, tránh việc từng công ty chứng khoán tự thiết kế hợp đồng như hiện nay, từ đó đưa ra những quy định gây bất lợi cho nhà đầu tư, ví dụ như quy định về giao dịch trực tuyến.
- Sớm có hướng dẫn các công ty chứng khoán thực hiện quy định mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho cán bộ quản lý và nhân viên hành nghề tại công ty hoặc trích lập quỹ bảo vệ nhà đầu tư do sơ suất kỹ thuật và sơ suất của nhân viên trong công ty. Theo Nghị định 85/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong thị trường chứng khoán, các công ty chứng khoán phải thực hiện cả hai quy định này, trong đó việc trích lập quỹ bảo vệ nhà đầu tư đang gặp khó khăn về nguồn trích, phí, xử lý đền bù, cơ sở trích, niên độ tính…
- Bổ sung và cụ thể hóa về việc bảo vệ nhà đầu tư trong quản trị công ty, căn cứ theo các tiêu chí của các cơ quan quốc tế có uy tín như Forbers, IFC…, trong đó cụ thể hơn tới mức độ dễ dàng để cổ đông có thể kiện ra tòa án khi quyền lợi bị ảnh hưởng bởi công ty.
- Đưa các nội dung về bảo vệ nhà đầu tư nhỏ vào chương trình đào tạo quản trị công ty bắt buộc cho các công ty đại chúng.
- UBCKNN cần kiên quyết thực hiện Quyết định 12/2007/QĐ-UBCK về việc quản trị công ty theo điều lệ mẫu, giao cho các vụ chức năng quản lý chặt chẽ các đối tượng phải đi học về quản trị công ty trong các công ty đại chúng, báo cáo thường xuyên cho Ủy ban, coi đó là một chỉ tiêu đánh giá và xếp hạng đối với doanh nghiệp. Ủy ban giao cho Trung tâm NCKH & Đào tạo Chứng khoán thực hiện đào tạo về quản trị công ty đối với công ty đại chúng, tiến tới thành lập Viện Quản trị công ty với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế.
- Có thể giao cho các hiệp hội trong ngành chứng khoán thống nhất các quy tắc về đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán, bao gồm cả cổ phiếu và trái phiếu, đào tạo bắt buộc và tập huấn thường xuyên đối với người hành nghề chứng khoán. Sớm nghiên cứu xây dựng một danh sách những người hành nghề vi phạm luật pháp khi hành nghề, công bố rộng rãi trong các thành viên thị trường trên các trang điện tử và văn bản để ngăn ngừa, chấn chỉnh tư cách hành nghề.
- Siết chặt hơn công tác giám sát thị trường đối với công ty đại chúng, công khai các chế tài và mức phạt thường xuyên đối với các hành vi vi phạm quy định. Có thể lập, công bố và lưu giữ danh sách các công ty đại chúng đưa vào “danh sách đen” trong thực thi Luật Chứng khoán khi vi phạm Luật này cũng như vi phạm các quy định về bảo vệ nhà đầu tư nhỏ.
- Các vụ chức năng của UBCKNN: (1) Siết chặt hơn việc quản lý người hành nghề chứng khoán, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, thường xuyên theo dõi điều kiện và tư cách hành nghề của người hành nghề chứng khoán; (2) Phối hợp với Trung tâm NCKH và Đào tạo Chứng khoán trong việc tập huấn, bồi dưỡng… người hành nghề trong các công ty chứng khoán để đảm bảo điều kiện hành nghề theo luật định, tránh kéo dài tình trạng hành nghề “chui” hoặc “nợ” chứng chỉ; (3) Phối hợp với các hiệp hội trong ngành chứng khoán trong việc theo dõi về đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề chứng khoán.
Đối với công ty đại chúng
Bên cạnh các hoạt động chuyên môn, công ty đại chúng cần có tầm nhìn dài hạn về sự phát triển của doanh nghiệp. Thc tế của thời kỳ khủng hoảng tài chính 2008 cho thấy, nếu công ty làm ăn trung thực, coi trọng nhà đầu tư thì nhà đầu tư và cổ đông không bỏ rơi công ty lúc hoạn nạn. Vì vậy, giới lãnh đạo doanh nghiệp cần:
- Thực hiện nghiêm túc Luật Doanh nghiệp trong việc tổ chức đại hội đồng cổ đông, trong công bố và thực thi các báo cáo tài chính bán niên và thường niên.
- Thực hiện nghiêm túc quan hệ công chúng và quan hệ cổ đông, quan tâm xây dựng bộ máy công bố thông tin trong doanh nghiệp; lựa chọn bộ phận thư ký công ty am hiểu luật pháp và quan hệ xã hội .
Đối với các tổ chức nghề nghiệp (hiệp hội trong ngành chứng khoán, VCCI…)
- Đưa các nội dung về bảo vệ nhà đầu tư nhỏ vào mẫu đánh giá doanh nghiệp, xếp hạng tín dụng đối với các tổ chức tín dụng.
- Sớm ban hành các bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong ngành chứng khoán, áp dụng trên cả thị trường cổ phiếu và trái phiếu và có chế tài kiểm soát, giám sát người hành nghề chứng khoán trong các hành vi liên quan đến đạo đức hành nghề.
- Thực hiện tốt vai trò trung gian giữa các thành viên thị trường và cơ quan quản lý trong việc lập quỹ và thực hiện luật pháp về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Đối với các tổ chức liên đoàn luật sư, công chứng: Tăng cường đào tạo cho các luật sư về chuyên ngành chứng khoán, cập nhật các quy định có liên quan về kinh doanh chứng khoán để có thể bảo vệ cho nhà đầu tư nhỏ trong các vụ kiện có liên quan về chứng khoán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nghị định 85/2010/NĐ-CP về xử phạt hành chính về chứng khoán (có hiệu lực từ ngày 20/9/2010)
- vneconomy.com.vn
- “Quản trị công ty”- Trung tâm NCKH&ĐT chứng khoán- UBCKNN
- Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Chứng khoán 2006.

Nguồn: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ 20/2010

Thứ Bảy, 19 tháng 2, 2011

MỘT SỐ VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC GHI TÊN NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT TRÊN GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, Nhà nước giao cho người dân quyền sử dụng nên Nhà nước cấp cho người dân giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, việc ghi tên người sử dụng đất trên giấy chứng nhận  quyền sử dụng đất trên thực tế đã có những vướng mắc, dẫn đến nhiều vụ tranh chấp khởi kiện ra Tòa án, đặc biệt đối với những giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên người sử dụng là hộ gia đình, họ tộc, cộng đồng dân cư sử dụng đất.
1. Về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, họ tộc: Theo quy định của Điều 106 Bộ luật dân sự năm 2005 thì “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”, khoản 1 Điều 107 Bộ luật Dân sự quy định “Chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Cha, mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ” . Tuy nhiên, khoản 3 Điều 43 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai quy định: “ 3.Đối với Hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện theo quy định sau:
a. Trường hợp hộ gia đình sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất là tài sản chung của cả vợ và chồng thì ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng; trường hợp hộ gia đình đề nghị chỉ ghi họ, tên vợ hoặc họ, tên chồng thì phải có văn bản thoả thuận của vợ và chồng có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn.
b. Trường hợp hộ gia đình sử dụng đất là tài sản chung của cả hộ gia đình không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này thì ghi họ, tên chủ hộ.”
Như vậy, hiện nay có sự mâu thuẫn giữa các quy định hướng dẫn thi hành  Luật đất đai năm 2003 với Bộ luật dân sự. Theo quy định hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003 nêu trên thì cá nhân chủ hộ giao dịch tài sản là quyền sử dụng đất của hộ gia đình mà không được sự đồng ý của các thành viên trong hộ thì giao dịch đó vô hiệu; còn Bộ luật dân sự quy định người đại diện hộ gia đình xác lập giao dịch vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình. Mặt khác pháp luật cũng chưa quy định rõ căn cứ vào giấy tờ gì để xác định chính xác số lượng thành viên trong một hộ sử dụng đất. Giữa những quy định về hộ gia đình trong Bộ luật Dân sự và hộ gia đình trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa có sự đồng nhất, chưa có hướng dẫn rõ ràng, dẫn đến một số  vướng mắc, cụ thể như sau:

- Đối với đất nông nghiệp ở nông thôn Luật đất đai quy định được cấp cho hộ gia đình, như vậy đây là tài sản chung của hộ. Nhưng có những trường hợp một người trong hộ nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của người khác nhưng đăng ký quyền sử dụng đất lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ dẫn đến ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của họ.
- Trường hợp nếu căn cứ vào sổ hộ khẩu gia đình để xác định chủ sử dụng đất sẽ dẫn đến những bất cập khi chuyển dịch thửa đất đó như: Người đứng tên chủ hộ trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không phải là chủ hộ gia đình trong sổ hộ khẩu gia đình. Chủ hộ được phép đại diện hộ gia đình đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng trên thực tế thì không ít trường hợp có người có tên trong hộ khẩu nhưng mục đích của họ chỉ để cư trú hợp pháp hoặc để xin cho con  vào học đúng tuyến. Có những trường hợp người có tên trong sổ hộ khẩu nhưng họ đã thoát ly khỏi hộ từ lâu, không còn liên quan đến tài sản mà thực chất tài sản là của cá nhân người chủ hộ. Ngoài ra, khi người đứng tên trong hộ sử dụng đất đã chết hoặc sổ hộ khẩu đã được đổi lại nhiều lần và hiện nay tên người đó không còn tên trong bất kỳ sổ hộ khẩu nào. Nếu trước khi chết, người đó còn độc thân, có tên một mình trong sổ hộ khẩu thì việc xác định người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật không gặp khó khăn gì. Nhưng, nếu sổ hộ khẩu của người đó có tên nhiều người khác thì sẽ rất khó để xác định được chính xác khối tài sản mà người đó để lại.
- Hiện nay do chưa thống nhất nội dung ghi tên chủ sử dụng đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên nhiều nơi  giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi chung chung như : Cấp cho hộ gia đình Ông A hay cấp cho tộc họ Nguyễn…nhưng thực tế thửa đất lại thuộc quyền sử dụng của cả vợ và chồng hoặc của các thành viên khác trong gia đình nên khi có tranh chấp Tòa án phải mất nhiều thời gian thẩm tra, xác minh để làm rõ những người có quyền sử dụng đất cụ thể là những ai trong hộ gia đình, trong  tộc họ. Nhiều trường hợp, khi có tranh chấp đương sự chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã ghi mà xác định đất cấp cho cá nhân và cho rằng việc xét xử của Tòa án là thiếu tính thuyết phục nên thường có đơn kêu oan gửi nhiều cơ quan Nhà nước, gây ra tâm lý thiếu tin cậy vào cơ quan Tòa án của người dân.
– Những tranh chấp trong quyền sử dụng đất còn do người dân khi đăng ký kê khai cấp quyền sử dụng đất không đăng ký rõ cấp cho hộ gia đình hay cho cá nhân, cho vợ hoặc chồng hay cho cả hai vợ chồng nên khi vợ, chồng hoặc các thành viên trong hộ gia đình có tranh chấp, nếu cơ quan Tòa án  chỉ căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để giải quyết tranh chấp theo đúng quy định của pháp luật sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của bên bị xâm phạm.
- Chính sách pháp luật đất đai của Nhà nước hiện nay còn thiếu các quy định về xử  lý các tranh chấp đất đai của họ tộc, đất hương hỏa, đất do các cơ sở tôn giáo quản lý, hệ thống pháp luật đất đai thường xuyên sửa đổi, bổ sung và do nhiều cơ quan khác nhau ban hành gây nên nhiều khó khăn cho cán bộ, thẩm phán ngành Tòa án khi phải cập nhật đầy đủ những thay đổi trong quy định pháp luật đất đai để giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật.
2. Về việc ghi tên người sử dụng đất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là cộng đồng dân cư: Đây là những cộng đồng làng bản, thôn ấp được Nhà nước giao đất, giao rừng, cộng đồng sử dụng các công trình như đình, đền, miếu, am ; nên họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng chỉ cấp cho người đại diện của cộng đồng theo ủy quyền; cộng đồng sử dụng đất không được quyền chuyển quyền sử dụng đất, nhưng trên thực tế người đại diện theo ủy quyền của cộng đồng dân cư có thể thay đổi theo thời gian vì nếu sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất , người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó chết hoặc không được cộng đồng dân cư đó tín nhiệm bầu vào chức vụ đại diện đó nữa thì giải quyết thế nào ? Vấn đề này hiện nay đang gặp phải vướng mắc khi giải quyết tranh chấp có liên quan đến quyền sử dụng đất của cộng đồng dân cư.
3. Một số kiến nghị
Để khắc phục những bất cập do quy định của pháp luật chưa thật đầy đủ, thống nhất cộng với nhận thức chưa rõ về quyền, nghĩa vụ cá nhân đối với tài sản trong khái niệm hộ gia đình, cộng đồng dân cư, các cơ quan, ban ngành chức năng có liên quan cần phối hợp với nhau để tháo gỡ những vướng mắc càng sớm càng tốt trong thực tiễn thi hành các quy định nêu trên. Nhà nước cần  tuyên truyền, phổ biến Luật đất đai và các văn bản có liên quan sâu rộng đến người dân, đồng thời  cán bộ có thẩm quyền khi  làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có trách nhiệm hướng dẫn, giải thích cụ thể những quy định của pháp luật để họ hiểu và kê khai chính xác tên người có quyền sử dụng đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trong trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình, tộc họ cần ghi rõ đầy đủ tên các thành viên (có thể có danh sách kèm theo); đối với tộc họ có quá đông thành viên thì có thể căn cứ vào ý chí của tộc họ thể hiện trong biên bản họp của hội đồng tộc họ nhất trí cho một hoặc một số thành viên trong tộc họ là người đại diện theo ủy quyền thay tộc họ đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của tộc họ. Đối với cộng đồng dân cư  đang được cấp giấy chứng nhận sử dụng các công trình như đình, đền, miếu, am thì nên quy định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đình, đền, miếu, am hoặc cấp cho ban quản lý các công trình này.
Sổ hộ khẩu gia đình không phải là cuốn sổ bất biến mà luôn chứa đựng những yếu tố biến động do quá trình tách, nhập, sinh, tử. Do đó, không thể đồng nhất giữa hộ gia đình trong sổ hộ khẩu với hộ sử dụng đất được. Hiện nay, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chính quyền địa phương vẫn theo nếp cũ khi cấp cho hộ gia đình đều ghi rất chung chung mà không tính đến những hậu quả khi hộ gia đình ấy đưa quyền sử dụng đất vào các giao dịch. Nên chăng, những giấy chứng nhận đã cấp cho hộ gia đình thì cần thiết phải đính chính bổ sung chủ sử dụng đất từ hộ gia đình sang các cá nhân là thành viên, nghĩa là ghi đủ tên các thành viên của hộ hoặc ghi một hay một số cá nhân là chủ sử dụng đất thực sự khi có đủ căn cứ chứng minh nguồn gốc đất đó do cá nhân được chuyển nhượng, chia tách hoặc do thừa kế, tặng cho riêng. Với những giấy chứng nhận đang trong quá trình xét, cấp thì chỉ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình khi các thành viên trong hộ sử dụng đất cùng làm đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã. Đây sẽ là căn cứ xác thực để người dân có thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất và cơ quan Tòa án có thể xác định chính xác số lượng thành viên trong hộ sử dụng đất khi giải quyết tranh chấp.Trường hợp đất đã cấp cho hộ gia đình mà một trong các thành viên trong hộ muốn tách ra một thửa riêng bằng văn bản thỏa thuận phân chia quyền sử dụng đất thì diện tích đất còn lại phải xác định rõ thuộc quyền sử dụng của những cá nhân nào trong các thành viên còn lại trong hộ.

Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Thứ Ba, 15 tháng 2, 2011

NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ KINH DOANH VỚI TƯ CÁCH CHỦ SỞ HỮU

Nếu nền kinh tế công hữu hóa tập trung bao cấp không chấp nhận thành phần kinh tế tư nhân, thì ngược lại, nền kinh tế thị trường nhiều thành phần lại đòi hỏi phải có thành phần kinh tế nhà nước, vì nếu thiếu, thì đó không còn là kinh tế thị trường nhiều thành phần nữa. Theo định đề này, có thể thấy đổi mới doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có hai nội dung chủ yếu:
1. Cổ phần hóa một bộ phận kinh tế nhà nước, trong đó cổ phần hóa được hiểu đồng nghĩa với tư nhân hóa khi toàn bộ một doanh nghiệp (DN) được cổ phần hóa, còn khi chỉ cổ phần hóa một phần DN thì đó là tư nhân hóa một phần. Cả hai dạng cổ phần hóa nêu trên đều đã diễn ra trong thực tế.
2. Đổi mới DNNN nhằm củng cố, tăng cường khu vực kinh tế nhà nước.
Với tư cách cơ quan quyền lực, Nhà nước qua Luật Doanh nghiệp thực hiện quản lý nhà nước đối với tất cả các DN thuộc mọi thành phần kinh tế. Trước pháp luật, DN các thành phần kinh tế đều bình đẳng. Tuy nhiên, với tư cách chủ sở hữu, Nhà nước không thể buông chức năng quản lý kinh doanh đối với các DN của mình.
Một câu hỏi nảy sinh: nếu các chủ quản (cũ) chỉ quản lý nhà nước, thì cơ quan nhà nước nào sẽ đóng vai trò chủ sở hữu để quản lý kinh doanh các đơn vị kinh tế nhà nước? Vấn đề này rất quan trọng nhưng lâu nay dường như còn bỏ ngỏ. Do đó, chức năng quản lý của chủ sở hữu cũng bị bỏ ngỏ theo.
Về danh nghĩa, DNNN có chủ là Nhà nước nhưng thực tế dường như vô chủ vì pháp luật chưa minh định ai là chủ. Đây là một môi trường màu mỡ cho lạm quyền, tham ô, tham nhũng đã đước tạo ra. Đã từng xuất hiện ý tưởng giao chức năng này cho các tổng công ty.
Song như thực tế đã cho thấy, các tổng công ty, kể cả Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước, không đủ tầm để thực hiện chức năng này, vì bản thân nó cũng chỉ là một DN, chỉ có tầm nhìn của DN, trong khi muốn đóng vai Nhà nước phải có tầm nhìn quốc gia.

Có thể nói đây là một khoảng trống trong cơ chế quản lý kinh doanh khu vực kinh tế nhà nước. Về mặt bộ máy, khoảng trống này bộc lộ rõ khi cần xử lý những vấn đề kinh doanh vượt quá thẩm quyền của hội đồng quản trị và tổng giám đốc, do thiếu một cấp trên để thường xuyên báo cáo và xin chỉ thị. Chẳng lẽ mỗi lúc như vậy lại trực tiếp trình lên Thủ tướng hoặc Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố?
Nhưng đó chỉ là một khoảng trống. Còn một khoảng trống quan trọng khác: thiếu hẳn vai trò chỉ đạo ở tầm chủ sở hữu kinh tế nhà nước trong điều hòa, phối hợp, nhất là trong tái phân phối vốn đầu tư và tích luỹ nội bộ của kinh tế nhà nước.
Cần nhấn mạnh rằng chính đây mới là thế mạnh của kinh tế nhà nước cần phát huy để tạo ra sức mạnh tổng thể và xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, nhất là trong cải cách cơ cấu kinh tế hiện nay, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân.
Khoảng trống này bộc lộ rõ trong tình trạng nhiều tổng công ty/tập đoàn đang hoạt động như những vương quốc độc lập. Với danh nghĩa kinh doanh đa ngành, đã xuất hiện tình trạng đầu tư chồng lấn, trái ngành giữa nhiều đơn vị kinh tế nhà nước, sa đà vào những đầu tư rủi ro và không có thế mạnh như bất động sản, chứng khoán, ngân hàng, tài chính…, gây ra những cơn sốt và thua lỗ không đáng có, trong khi nhiều hạng mục cần thiết cho nền kinh tế, đúng thế mạnh lại bị buông lơi do “thiếu” vốn!
Có lẽ nhằm lấp những khoảng trống nêu trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định về tập đoàn kinh tế nhà nước. Nhưng vấn đề đặt ra là chúng ta đang thiếu một cơ chế quản lý kinh doanh đối với kinh tế nhà nước, chứ không phải chỉ đối với tập đoàn kinh tế nhà nước vừa do lắp ghép cơ học, vừa do phát triển tự phát.
Cho nên rất cần một Nghị định (thậm chí một Luật riêng) để minh định cơ chế này. Cơ sở pháp lý của Nghị định này không phải là Luật Doanh nghiệp nhà nước (đã hết hiệu lực), mà là Luật Doanh nghiệp. Trong khuôn khổ Luật Doanh nghiệp và bằng Nghị định này, với tư cách chủ sở hữu, Chính phủ quy định khuôn khổ cho cơ chế quản lý kinh doanh các doanh nghiệp thuộc sở hữu của mình.
Nghị định này (và các văn bản tương tự) mang tính chất nội quy hơn là pháp quy. Nó chỉ có giá trị thi hành trong khu vực kinh tế nhà nước. Chính phủ không thể thông qua Nghị định này để quy định những ưu ái riêng cho DNNN.
Trong cơ chế quản lý này, vấn đề quan trọng bậc nhất là minh định người giữ vai trò chủ sở hữu. Tất nhiên người này phải có đủ tư cách nhân danh nhà nước làm chủ sở hữu kinh tế nhà nước. Cụ thể hơn, đó phải là người đứng đầu một cơ quan Nhà nước được cơ quan lập pháp (Quốc hội hoặc HĐND) bổ nhiệm và do đó có trách nhiệm báo cáo, giải trình và chịu sự giám sát của cơ quan lập pháp.
Lại phải có một bộ máy chuyên môn giúp việc, có vị trí tương đương một bộ, một sở. Ngoài ra bản thân người được chỉ định làm chủ sở hữu kinh tế Nhà nước này vừa phải có tầm nhìn quốc gia, vừa cũng có đủ phẩm chất của doanh nhân. Thiếu những điều kiện nay, khó nói tới cơ chế quản lý kinh doanh khu vực kinh tế nhà nước.
Nguồn: DOANH NHÂN SÀI GÒN ĐIỆN TỬ

TÁI CẤU TRÚC VINASHIN: CẦN ĐỐI XỨNG THÔNG TIN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP

Tăng trưởng “nóng”, mải mê theo đuổi những mục tiêu lớn trong khi trình độ quản lý không theo kịp là nguyên nhân chính đưa con tàu Vinashin bị cuốn vào vòng xoáy khủng hoảng.
Trong nhiều tháng qua, vấn đề khủng hoảng tại Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) liên tục là tâm điểm của các hệ thống truyền thông, giới nghiên cứu chính sách, cộng đồng kinh doanh và đông đảo quần chúng nhân dân. Những sai phạm tại Vinashin cần xử lý nghiêm khắc, từng cá nhân sẽ phải nhận đầy đủ trách nhiệm, song việc quan trọng hơn hết là tái cấu trúc lại ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam. Với lợi ích quốc gia được đặt lên hàng đầu, tỉnh táo phân tích thực trạng Vinashin với các số liệu trung thực và công khai để xây dựng các giải pháp, kịch bản phục hồi là việc trọng yếu và cần được ưu tiên đặc biệt vào lúc này.
1 – Bất đối xứng thông tin về hoạt động doanh nghiệp của Vinashin
Trong các luồng thông tin về Vinashin thời gian qua, vấn đề được nhắc tới nhiều lần là năng lực quản lý hạn chế, đầu tư tràn lan vào nhiều lĩnh vực không liên quan tới chức năng kinh doanh cốt lõi của tập đoàn, đội ngũ lãnh đạo có những biểu hiện chuyên quyền, độc đoán, báo cáo không đúng về thực trạng sử dụng vốn, kết quả đầu tư và khai thác kinh doanh.
Với cách thức hoạt động như vậy, lại gặp bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái, ngành đóng tàu và sửa chữa tàu biển thế giới phải đối mặt nhiều khó khăn, Vinashin lâm vào tình trạng thua lỗ nặng nề, vay nợ lớn và có nguy cơ mất khả năng thanh toán, phá sản, đông đảo công nhân bị nợ lương, bị mất việc làm hoặc chuyển việc.
Điều đáng nói là, trong bối cảnh đó, những thông tin về Vinashin đều thể hiện quan điểm và góc nhìn từ bên ngoài vào hệ thống này, còn thông tin được đưa ra từ Vinashin lại vắng bóng. Trên các phương tiện truyền thông đại chúng, thông tin và phân tích của chính Vinashin có thể nói là không hề xuất hiện.
Mặt khác, thông tin được công bố chính thức về các vấn đề và khó khăn của Vinashin nhiều, nhưng nội dung giống nhau, dừng lại ở các con số cộng gộp nên khó sử dụng cho phân tích sâu, không khắc họa được đầy đủ bức tranh toàn cảnh về Vinashin cũng như việc xây dựng các kịch bản vận hành trong tương lai. Thông báo của Văn phòng Chính phủ về “Tình hình hoạt động và chủ trương, giải pháp để ổn định, phát triển Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam”, vào ngày 4-8-2010, cho đến nay là tài liệu chính thức có mô tả đầy đủ nhất về hiện trạng của Vinashin.

Đối diện với khủng hoảng nhiều mặt, song Vinashin chưa cung cấp đầy đủ thông tin và bình luận cho công luận. Công bố cáo báo hoạt động thường niên là việc bình thường và quen thuộc đối với các tổ chức kinh doanh quy mô lớn, tuy nhiên, những báo cáo này của Vinashin thì chưa ai thấy.
Thực tế này dẫn tới tình trạng bất đối xứng thông tin trong tiếp cận và tìm kiếm lời giải cho bài toán tái cấu trúc Vinashin. Trong lúc mối quan tâm của công chúng đặt phần lớn vào các vụ bắt tạm giam một số thành viên lãnh đạo Vinashin, điều chuyển nhân sự quản lý cấp cao mới cho Tập đoàn, việc lắng nghe các ý kiến phê bình và phân tích nguyên nhân dẫn tới hiện trạng khó khăn của Vinashin, những tín hiệu kinh doanh khởi sắc, kết quả lao động của tập thể đội ngũ Vinashin trong vài tháng qua dường như chưa đủ để lấy lại niềm tin của công chúng về một thương hiệu công nghiệp có quy mô lớn của Việt Nam.
2 – Thực trạng và các vấn đề cơ bản cần giải quyết của Vinashin hiện nay
Được thừa hưởng một quá trình xây dựng năng lực lâu dài, bền bỉ của ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam
Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập năm 1996, năm 2003 chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con. Tới năm 2006, Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam được Chính phủ quyết định thí điểm hình thành. Năm 2006 có thể xem như mốc đánh dấu quan trọng nhất trong quá trình phát triển của Vinashin khi Tập đoàn này được giao sử dụng nguồn vốn 750 triệu USD từ phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ. Như vậy, trong lịch sử hơn 50 năm phát triển của ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam, thời gian Vinashin hiện diện và hoạt động mạnh mẽ, về cơ bản, chỉ trong 5 năm trở lại đây.
Đóng tàu là ngành công nghiệp nặng, sử dụng nhiều lao động, nhưng đồng thời cũng đòi hỏi sự phát triển đồng bộ của nhiều ngành công nghiệp hỗ trợ. Bởi vậy, từ việc xác định tầm nhìn tới thực thi và đạt tới những kết quả đầu tiên là một quá trình lao động lâu dài và bền bỉ. Tập đoàn công nghiệp nặng Huyndai (Huyndai Heavy Industries) – hãng đóng tàu lớn nhất thế giới với 12% thị phần toàn cầu – khởi sự năm 1972 (trên nền tảng một tập đoàn xây dựng đã hoạt động từ năm 1947) và đến năm 1986 mới ghi nhận mốc thành tựu đầu tiên khi hạ thủy thành công tàu chở quặng trọng tải 365.000 dwt. Năng lực chế tạo tàu hàng trọng tải 53.000 dwt, tàu chở dầu thô trọng tải 105.000 dwt của Vinashin ở hiện tại là thành tựu mang tính chất nền tảng rất đáng khích lệ cho những bước phát triển tiếp theo.
Trong lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam, từng có thời điểm nước ta đạt tới trình độ đóng tàu khá cao. Thời Gia Long đã bắt đầu tổ chức các đội thợ đóng tàu. Năm 1893, dựa theo cách thức phương Tây, đội thợ Việt Nam đã đóng thành công chiếc tàu thủy chạy bằng máy hơi nước đầu tiên. Rất tiếc là, dưới triều Nguyễn, sau vài chục năm phát triển ngành đóng tàu đã bị dừng lại. Triều đình nhà Nguyễn chuyển sang mua sắm tàu mới từ nước ngoài.
Vinashin thực sự có năng lực đóng và sửa chữa tàu. Năng lực này cần được tích lũy và cần có thời gian để phát triển, thể hiện ra thành sản phẩm. Xây dựng năng lực là một quá trình, phải tích lũy đủ về lượng thì mới đạt tới chuyển đổi về chất. Vinashin cần được tái cơ cấu theo hướng tiếp tục làm trụ cột phát triển ngành công nghiệp đóng tàu của Việt Nam, gắn liền với chiến lược biển và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Quá trình xây dựng năng lực cho Vinashin nếu bị đứt đoạn sẽ biến các chi phí và đầu tư trong quá khứ chuyển thành thua lỗ và không thể thu hồi (sunk-cost).
Về năng lực tài chính và trạng thái nợ
Sự thiếu vắng các báo cáo tài chính và dữ liệu công bố chính thức về các khoản nợ cụ thể của Vinashin là nguyên nhân của nhiều câu hỏi nghi vấn, cả về kỹ thuật, tài chính lẫn tính minh bạch trong việc điều hành Tập đoàn này. Theo thông báo của Chính phủ, tính đến tháng 6-2010, tổng dư nợ của Vinashin là 86.000 tỉ đồng. Đây là số tiền rất lớn, gây ảnh hưởng rất lớn với dư luận xã hội, đặc biệt khi đất nước ta vừa ra khỏi tình trạng nghèo và nhân dân liên tục phải chịu nhiều thiên tai. Tất nhiên, lời giải của bài toán tài chính này đòi hỏi sự suy xét thấu đáo và những tính toán cụ thể.
Sức ép cải thiện năng lực tài chính với Vinashin hiện rất lớn khi tỷ lệ nợ phải trả so với vốn chủ sở hữu tới gần 11 lần. Nếu chỉ có nỗ lực và quyết tâm lao động miệt mài của tập thể hàng chục vạn cán bộ công nhân viên Vinashin sẽ không giải tỏa nổi sức ép này, nếu không có trợ giúp từ Chính phủ, sự ủng hộ của cộng đồng kinh doanh Việt Nam, sự chia sẻ và cảm thông của toàn xã hội. Vi phạm của những người điều hành Tập đoàn phải được xử lý nghiêm minh. Kết quả làm việc của từng người lao động Vinashin phải được ghi nhận xứng đáng. Công sức đội ngũ nhiều thế hệ lao động ngành đóng tàu không thể nào bị phủ nhận chỉ bởi sai lầm của một số cá nhân lãnh đạo.
Khác với những thiệt hại thiên tai, tiền vay nợ không phải những khoản mất không. Số tiền này khi được sử dụng hợp lý, có năng lực tạo ra giá trị mới, mang lại nguồn thu để hoàn trả tiền vay (cả gốc và lãi) cũng như tích lũy lợi nhuận. Ngoài ra, con số thống kê cộng gộp không gợi mở những giải pháp tháo gỡ. Gánh nặng nợ tại Vinashin cần được phân loại theo từng nhóm tiêu chí thích hợp mới có thể thiết kế các phương án quy hoạch nguồn lực và tập trung hoạt động sản xuất, kinh doanh cho các dự án, công trình và hợp đồng sớm mang lại doanh thu. Tổng số dư nợ có thể chia theo kỳ thanh toán thành dài hạn, trung hạn và ngắn hạn làm cơ sở ước tính áp lực tài chính vào mỗi thời điểm. Số tổng này cũng có thể phân theo mục đích sử dụng, đâu là vốn vay để đầu tư dài hạn, đâu là vốn vay để ứng trước cho sản xuất hoàn thành hợp đồng, đâu là nợ đọng do nhận tiền ứng trước của khách hàng… Từ đó, Tập đoàn mới xây dựng các phương án thuyết phục với chủ nợ, nhà đầu tư, khách hàng để tái cấu trúc các khoản phải trả.
Muốn nhận được tương trợ, trước tiên và trên hết, Vinashin phải gây dựng được niềm tin từ công chúng, bạn hàng và đối tác. Sớm công bố đầy đủ và minh bạch hiện trạng tài chính của Tập đoàn, cùng lúc với sự khẳng định quyết tâm khôi phục hình ảnh và năng lực sản xuất qua các hợp đồng được hoàn thành, sản phẩm được bàn giao là nhiệm vụ quan trọng của Vinashin lúc này.
Về tổ chức nguồn lực và hệ thống kinh doanh
Bố trí nguồn lực và tổ chức lại hệ thống kinh doanh tại Vinashin là nội dung cần được cân nhắc thấu đáo và xem xét giải pháp trên nhiều phương diện (khả thi kinh doanh, hiệu quả tài chính, ổn định tâm lý và bảo đảm đời sống cho người lao động, gìn giữ và kế tục các quan hệ hợp tác kinh doanh…). Phương án tái cấu trúc bước đầu đã có những sàng lọc hợp lý và cần tiếp tục dứt khoát loại bỏ các đơn vị thành viên kinh doanh kém hiệu quả, chuyển nhượng các dự án đang dang dở và không nằm trong lĩnh vực kinh doanh chủ đạo hay trong định hướng phát triển dài hạn của Vinashin. Việc chuyển một số đơn vị từ Vinashin sang các tập đoàn PetroVietnam và Vinalines cũng phải căn cứ trên tiêu chí phân bổ hợp lý nguồn lực quốc gia và phát huy thế mạnh kinh doanh của từng đơn vị.
Những khó khăn trước mắt của Vinashin không thể là lực cản của chiến lược xây dựng ngành công nghiệp đóng tàu, vừa giữ vai trò mũi nhọn kinh tế, vừa bảo đảm năng lực chủ động công nghệ quốc phòng, an ninh trên biển của Việt Nam. Vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng năng lực đóng tàu của thế giới năm 2008 của Việt Nam (1,5% thị phần), sau Nhật Bản (3,7%), EU (5,7%), Trung Quốc (34,4%), Hàn Quốc (50,6%) cần được xem như nền tảng vững chãi cần được kế thừa và phát huy cho những bước phát triển tiếp theo.
Với lực lượng lao động đông đảo khoảng gần 7 vạn người, sắp xếp và bảo đảm đủ việc làm tại Vinashin là nhiệm vụ khó và phức tạp. Các giải pháp không chỉ cần nhằm tới mục tiêu, hiệu quả sản xuất, kinh doanh mà còn cả nhiệm vụ ổn định đời sống và an sinh xã hội.
Trong thời gian ngắn, Vinashin đã mở ra nhiều đơn vị kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau, thể hiện sự hạn chế về năng lực điều hành của lãnh đạo Tập đoàn. Tuy vậy, quá trình tái cấu trúc hệ thống kinh doanh Vinashin vẫn cần sàng lọc kỹ và đánh giá đầy đủ về năng lực kinh doanh. Các quyết định định giá tài sản của Tập đoàn trước khi chuyển nhượng, thanh lý cần tránh việc quy kết mọi đơn vị thuộc Vinashin đều có năng lực kinh doanh yếu, không sinh lợi nhuận để tránh trường hợp bán tài sản với giá thấp.
Đối với các đơn vị thành viên của Vinashin cũng cần phân loại cụ thể theo từng nhóm khác nhau. Ngay trong số các đơn vị Tập đoàn mới tham gia cũng có thể chia ra cơ sở do Vinashin đầu tư 100%, cơ sở góp vốn trực tiếp bằng tiền, cơ sở góp vốn bằng thương hiệu và các tài sản phi tài chính khác… Một thành viên trong Hội đồng Thương hiệu quốc gia cho biết, nhờ ký được những hợp đồng đóng tàu có giá trị lớn, làm tăng giá trị thương hiệu, nên Vinashin đã được phép góp vốn bằng thương hiệu với các liên doanh nước ngoài, sau khi đã áp dụng thử nghiệm tại nhiều doanh nghiệp trong nước. Trên thực tế, Vinashin đã góp 30% vốn bằng thương hiệu với khoảng 103 doanh nghiệp trong nước(1).
Về định hướng truyền thông
Khủng hoảng của Vinashin đang thu hút rất nhiều sự quan tâm từ nhiều giới, cả trong và ngoài nước. Vì vậy, bên cạnh các nỗ lực tái cấu trúc, cải thiện năng lực kinh doanh cốt lõi cho Tập đoàn, rất cần một chiến lược truyền thông được thiết kế kỹ lưỡng và sáng suốt, công việc này cần được xác định như một nhiệm vụ mà Vinashin phải chủ động thực hiện.
Trong Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020, công nghiệp đóng tàu là một trong hai trụ cột quan trọng nhất của ngành kinh tế hàng hải, lĩnh vực được kỳ vọng sẽ đứng thứ hai về đóng góp cho ngân sách nhà nước, sau dầu khí và vươn lên đứng thứ nhất sau năm 2020. Theo tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, đứng từ góc độ ngành, dù Vinashin có sụp đổ thì không có nghĩa là ngành đóng tàu của Việt Nam biến mất. Câu chuyện Vinashin là “vị đắng” cho ngành đóng tàu, song bài toán tái cấu trúc Vinashin có thể là cơ hội tốt để tái cấu trúc ngành đóng tàu.
Công bố định kỳ các báo cáo tài chính, báo cáo kinh doanh, báo cáo thường niên là nghĩa vụ thông thường đối với những tổ chức kinh doanh lớn. Một tập đoàn quy mô quốc gia, như Vinashin, ít nhất cũng có thể tuân thủ chuẩn mực công bố thông tin giống với công ty đại chúng. Quản trị xung đột lợi ích trong các tập đoàn kinh tế luôn là vấn đề ở bất kỳ hệ thống kinh tế nào. Mỹ vốn được xem là có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo, nhưng vẫn không tránh khỏi đổ vỡ của các tập đoàn xuất phát từ năng lực quản trị công ty như Enron và Kmart (năm 2002) hay Worlcom (năm 2007). Chính phủ Mỹ, trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua, cũng phải chấp nhận những khoản thua lỗ khổng lồ từ hai tập đoàn nhà nước là Fannie Mae và Freddie Mac. Mới đây, ngày 21-10-2010, Cơ quan tài chính nhà đất liên bang của Mỹ (FHFA) cho rằng hai tập đoàn này nhiều khả năng cần thêm 215 tỉ USD tiền cứu trợ của Chính phủ Mỹ để có thể tiếp tục vận hành ổn định.
Giải quyết khủng hoảng tại Vinashin cần tới sự hỗ trợ và chỉ đạo từ các bộ, ngành. Tuy nhiên, cần xác định rõ, đây là vấn đề của một tổ chức kinh doanh, với quy mô rất lớn. Không chỉ người dân Việt Nam mà giới đầu tư, kinh doanh quốc tế cũng rất chú ý theo dõi quá trình xử lý những vấn đề tại Vinashin, bởi từ đây, họ có thể hình dung về hiệu quả vận hành của các tập đoàn kinh tế nhà nước, rộng hơn là hệ thống doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam. Vì vậy, các giải pháp với Vinashin cần bảo đảm tính ổn định cho cả hệ thống kinh tế quốc gia. Cộng đồng quốc tế sẽ đánh giá cao tiềm năng của nền kinh tế Việt Nam, coi Việt Nam là điểm đầu tư an toàn và hiệu quả, nếu như những vấn đề tại Vinashin được giải quyết triệt để và hiệu quả.
Công tác truyền thông cần tích cực, nhưng phải thật sự đúng đắn, trong việc thông tin về Vinashin, góp phần gìn giữ và phát triển thương hiệu của ngành đóng tàu Việt Nam. Các ý kiến phản biện, phân tích nhiều chiều về những nguyên nhân tạo ra khủng hoảng nhiều mặt tại Vinashin là cần thiết, hỗ trợ thúc đẩy tiến trình xây dựng các giải pháp nhằm nhanh chóng đưa Tập đoàn trở lại quỹ đạo vận hành bình thường, khởi đầu cho thời kỳ phát triển mới. Công tác phản biện, vì vậy, cần có định hướng truyền thông đúng đắn. Một mặt, thẳng thắn nêu vấn đề, chỉ rõ trách nhiệm. Mặt khác, kiên quyết không để các thế lực phản động, lực lượng thù địch lợi dụng để bôi xấu và xuyên tạc chính sách đổi mới của Đảng, phủ nhận thành quả lao động của hàng ngàn người.
Tiến trình tái cấu trúc Vinashin cần được thực thi với nguyên tắc trên hết là vì lợi ích quốc gia. Tập đoàn đang đứng trước một ngả rẽ quan trọng với mục tiêu đã được xác định là gìn giữ những giá trị và thành tựu lao động gây dựng trong những năm qua về đội ngũ lao động có kỹ năng chuyên sâu, về bí quyết công nghệ và kỹ thuật, về thương hiệu và thị phần quốc tế. Mọi nỗ lực mổ xẻ nguyên nhân, phân tích hiện trạng đều cùng hướng tới mục tiêu kiến thiết và đề xuất những giải pháp phát triển năng lực cạnh tranh, hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế chính sách điều hành./.
——————————————
(1) http://vneconomy.vn/20101027114233210P0C5/ cau-chuyen-dinh-gia-thuong-hieu.htm
Nguồn: TẠP CHÍ CỘNG SẢN ĐIỆN TỬ SỐ 2(218) NĂM 2011

LƯƠNG VÀ “LẬU” CỦA CÔNG CHỨC

Lương thấp nhưng có người vẫn sống tốt 
Lương công chức hiện nay cao hay thấp? Có người cho rằng nó quá cao, nếu so với năng suất lao động của công chức hiện nay; có người cho rằng “ăn thế, thì làm thế” và “làm thế, thì ăn thế” có nghĩa là lương cũng phù hợp với cung cách làm việc của công chức.
Nhưng cũng không ít ý kiến cho rằng lương công chức quá thấp – “thấp” là so với nhu cầu chi tiêu cho tái sản xuất sức lao động, cũng là thấp nếu so với mức lương của những người cùng trình độ nhưng làm việc ở khu vực kinh tế tư nhân hoặc có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, đã có những hiện tượng gọi là “chảy máu chất xám”.
Thực tế cho thấy, bộ máy nhà nước không thu hút được người tài có nhiều nguyên nhân đã được phân tích: có nguyên nhân do môi trường làm việc không thuận; do việc sử dụng, bố trí công việc không đúng người, đúng chỗ; do thiếu điều kiện để công chức thăng tiến bằng năng lực thực sự của họ, v.v… nhưng một nguyên nhân không thể xem nhẹ: đó là lương quá thấp.
Bộ máy nhà nước không thu hút được người tài hoặc không phát huy được người tài đang làm cho chất lượng hoạt động của bộ máy giảm sút, tác động không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả quản lý của bộ máy.
Đáng quan tâm là trong bộ máy nhà nước hiện nay, cũng có những người đang sống khá tốt, có tích lũy khá, có ôtô riêng, có biệt thự sang trọng, đầy đủ tiện nghi mà với mức lương của họ, không thể nào có được.
Tức là họ có những khoản thu nhập ngoài lương, những “đặc lợi” nhiều khi gấp nhiều lần so với lương chính thức. Những khoản thu nhập này có loại chính đáng, nhưng không ít loại không chính đáng và lớn hơn rất nhiều so với loại thu nhập chính đáng.
Những thu nhập ngoài lương này rất cao và không có giới hạn, không minh bạch, không kiểm soát được, đang diễn biến rất tinh vi, muôn hình vạn trạng. Thực chất là các dạng tham nhũng của công chức khi có quyền lực trong tay, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà còn ở trong các lĩnh vực khác, như hành chính, văn hóa, xã hội, v.v…
Tình trạng này, nhiều nơi có, nhiều người biết, nhưng do nhiều lý do tế nhị, không thể chỉ đích danh được. Có thể khái quát những loại thu nhập không chính đáng ngoài lương bắt nguồn từ quyền lực, cụ thể là từ những người có chức quyền như sau.

- Những người có quyền cấp đất cho doanh nghiệp, cho doanh nghiệp thuế đất; lợi dụng quyền lực để cấp đất cho mình, cho người trong gia đình; dùng đất để “ngoại giao”, biếu cấp trên.
- Những người có quyền phê duyệt các loại dự án (nhất là dự án đầu tư, kể cả trong kinh tế và trong văn hóa), có quyền cho sử dụng vốn ODA; họ được hưởng “lại quả”; thường có đường dây “chạy dự án”.
- Những người có quyền chỉ định ngân hàng cho vay tiền đối với những doanh nghiệp hoặc dự án, có quyền cho khoanh nợ, giãn nợ, chuyển nợ thành vốn nhà nước cấp; đương sự cần trả “hoa hồng” tùy theo số tiền nhận được.
- Những người có quyền quy định mức thuế mà cá nhân hoặc doanh nghiệp phải nộp; nhiều trường hợp “thoái thu” tiền thuế rất khó khăn, cần “lót tay”.
- Những người có quyền xử phạt hành chính những lỗi vi phạm trong kinh doanh, trong giao thông, vận tải (quản lý thị trường, cảnh sát giao thông, trật tự đô thị…); có những trường hợp “cưa đôi” ngay tại địa điểm xử phạt.
- Những người có quyền bổ nhiệm, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, dẫn đến tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, hoặc người có quyền can thiệp vào việc xét xử của tòa án, dẫn đến “chạy tù”, “chạy tội”; v.v…
Kiểm soát quyền lực, đổi mới chế độ tiền lương 
Có thể nói: những thu nhập ngoài lương không chính đáng thường có nguồn gốc là quyền lực; người có quyền lực dựa vào vị thế của mình để trục lợi, quyền lực càng cao thì thu nhập bất chính càng dễ lớn; thế nên mới xuất hiện loại “kinh doanh quyền lực”.
Trong thực tế, khi quyền lực (thể hiện bằng chức vụ) trở thành hàng hóa, có thể “mua, bán”, thì người bỏ tiền ra mua chức vụ (chức vụ càng cao thì giá càng đắt) phải tìm mọi cách để “thu hồi vốn” và có lãi; lại phải thực hiện ngay trong nhiệm kỳ (từ đó, nảy sinh “tư duy nhiệm kỳ”, tranh thủ vơ vét trong nhiệm kỳ).
Khi quyền lực không bị kiểm soát, thì người có quyền lực thường có khuynh hướng “tối đa hóa quyền lực” để tận hưởng những đặc quyền, đặc lợi. Vì vậy, để khắc phục tình trạng sử dụng quyền lực để thu vét những khoản thu nhập không chính đáng ngoài lương, trước hết, phải hoàn chỉnh thể chế kinh tế thị trường, tức là xóa bỏ nguồn gốc của những đặc lợi bắt nguồn từ quyền lực.
Cần xác định rõ chức năng của Nhà nước trong kinh tế thị trường; hình thành cụ thể các loại thị trường của nền kinh tế, phân biệt chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quyền lực và phạm vi hành xử của công chức; giảm thiểu sự can thiệp bằng biện pháp hành chính làm méo mó thị trường.
Văn bản quy phạm pháp luật phải được xây dựng một cách dân chủ, có sự tham gia của dân và doanh nghiệp; khắc phục tình trạng cơ quan nhà nước “cài cắm” vào văn bản quy phạm pháp luật những điều khoản mà họ có thể dựa vào đó để trục lợi.
Quan trọng nhất là các quy định phải được công bố công khai, rộng rãi, để dân và doanh nghiệp dễ giám sát việc thực hiện. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước là rất cần thiết để xóa bỏ một nguồn khá lớn cung cấp các khoản thu nhập không chính đáng cho quan chức nhà nước.
Đổi mới một cách cơ bản tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và công tác cán bộ, công chức, sao cho tinh gọn, tránh trùng lắp, chồng chéo và nhất là bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, điều hành. Nếu bộ máy nhà nước phình to, số người hưởng lương từ ngân sách nhà nước quá nhiều và không hợp lý, thì ngân sách nhà nước không thể chịu nổi việc cải cách chế độ tiền lương.
Cần tách số người làm việc trong khu vực sự nghiệp ra ngoài danh sách công chức. Những người làm việc trong các đoàn thể chính trị, tổ chức chính trị – xã hội không phải là công chức, không nên để trong biên chế nhà nước và hưởng lương từ ngân sách; nếu cần, Nhà nước có thể cấp cho một số tổ chức này một khoản kinh phí để họ tự bố trí bộ máy và thu nhập cho nhân viên.
Đồng thời, sửa đổi cơ chế quản lý công chức: từ việc tuyển dụng cho đến giáo dục đạo đức công vụ, sử dụng, đãi ngộ, v.v… thực hiện một cách công khai, minh bạch.
Hệ thống tiền lương phải bảo đảm trả đúng, trả đủ giá trị sức lao động của công chức trong bộ máy nhà nước (có tính đến mối tương quan với tiền lương của khu vực ngoài nhà nước), bảo đảm thu hút và giữ nhân tài; tiền tệ hóa các khoản thu nhập chính đáng.
Cần mở rộng bội số tiền lương, v.v… nhằm khuyến khích mạnh mẽ công chức yên tâm làm việc trong bộ máy nhà nước, tận tụy làm việc, tiếp tục thăng tiến theo trình độ, khả năng của bản thân và hưởng thụ theo khả năng của bản thân, không cần tham nhũng và cũng không thể tham nhũng.
Xóa bỏ những khoản thu không chính đáng, hợp pháp hóa những khoản thu nhập chính đáng; hoàn chỉnh hệ thống phụ cấp ngoài lương. Cần tiền tệ hóa, đưa vào lương những khoản thu nhập liên quan đến điều kiện làm việc của công chức, như nhà ở, phương tiện đi lại, sử dụng điện, điện thoại, v.v…
Những khoản thu của công chức trong nghiên cứu khoa học, tham gia các đề tài, chương trình nghiên cứu khoa học, hội thảo chuyên đề, v.v… là những khoản thu chính đáng, thể hiện sự đánh giá của xã hội đối với tài năng, trí tuệ của nhà khoa học, nên khuyến khích, không nên hạn chế.
Cuối cùng là việc thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc thực thi các cơ chế, chính sách quản lý về tiền lương và thu nhập, để phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính sách, có thể dẫn đến tình trạng trục lợi bất chính; hoặc những trường hợp cơ quan, địa phương tự đề ra những khoản phụ cấp (thành văn hoặc bất thành văn) để áp dụng riêng cho cơ quan, địa phương, gây ra bất công trong thu nhập của công chức, bất công giữa các cơ quan, các địa phương.
Nói cách khác, đây chính là việc giám sát quyền lực, giám sát các khoản thu nhập của công chức, vừa khẳng định phạm vi quản lý của cơ quan nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước làm đúng chức năng, nhiệm vụ; vừa làm trong sạch đội ngũ công chức, để công chức thực sự là người phục vụ dân và doanh nghiệp, được hưởng thu nhập đúng với hiệu quả công việc của mình, góp phần chống tham nhũng.
Trong việc này, nếu chỉ cơ quan nhà nước kiểm tra lẫn nhau thì rất dễ xảy ra nể nang, xuê xoa, vì vậy, rất cần sự kiểm tra, giám sát của dân và doanh nghiệp, của các tổ chức xã hội dân sự.
Nguồn: BÁO DOANH NHÂN SÀI GÒN ĐIỆN TỬ

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT: LÀM SAO ĐỂ TÒA KHỎI “LẤN SÂN” ỦY BAN?

Tranh chấp tài sản gắn liền với đất chưa có giấy tờ có thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa hay không đang gây tranh cãi.
Tranh chấp đất lẽ ra do UBND giải quyết thì tòa lại thụ lý là hiện tượng mà Tòa Dân sự TAND TP.HCM đã chỉ ra trong một buổi tổng kết về nghiệp vụ xét xử mới đây. Có chuyện này cũng bởi thẩm phán chưa hiểu đúng quy định pháp luật hoặc do thiếu hướng dẫn…
Theo Điều 136 Luật đất đai 2003, tranh chấp về quyền sử dụng đất (đã được hòa giải không thành tại UBND cấp xã), nếu đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2, 5 Điều 50 luật này sẽ do tòa án giải quyết. Các trường hợp khác thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp huyện, UBND cấp tỉnh, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Hiểu luật chưa đúng
Theo thẩm phán Dương Bửu Chánh – Chánh Tòa Dân sự TAND TP.HCM, nhiều tòa đã hiểu không đúng quy định trên, dẫn đến thụ lý sai thẩm quyền. Cụ thể, có hai tình huống các tòa thường hay bị nhầm lẫn.
Tình huống thứ nhất: Đương sự mới chỉ có tên trong sổ mục kê (quản lý việc sử dụng) hoặc sổ dã ngoại (phục vụ công tác tổ chức đăng ký quyền sử dụng đất) nhưng tòa lại chấp nhận thụ lý tranh chấp. Việc này là nhầm lẫn về thẩm quyền bởi đương sự phải có tên trong sổ ruộng đất, sổ địa chính mới được coi là có giấy tờ về quyền sử dụng đất để ngành tòa án thụ lý tranh chấp. Đương sự chỉ có tài liệu liên quan trong hai loại sổ mục kê, sổ dã ngoại thì không phải là người đăng ký quyền sử dụng đất được ghi trong sổ địa chính. Họ không nằm trong diện điều chỉnh của Luật Đất đai và tranh chấp của họ không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa.
Tình huống thứ hai: Đương sự có đăng ký trong sổ địa chính nhưng là do hợp tác xã, tập đoàn sản xuất đăng ký rồi phân bổ lại cho họ sử dụng. Nay hợp tác xã, tập đoàn sản xuất đó giải thể và phát sinh tranh chấp thì dù thửa đất đó đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa cũng vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa. Vấn đề là gặp trường hợp đương sự đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng diện tích, vị trí đất tranh chấp không nằm trong giấy chứng nhận, đúng ra thẩm quyền giải quyết thuộc UBND thì có tòa vẫn “lấn sân”.

Thiếu hướng dẫn
Ngoài ra, có một tình huống khác mà các tòa cũng lúng túng về thẩm quyền do luật chưa quy định rõ là tình huống tranh chấp tài sản gắn liền với đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai.
Một ví dụ được đưa ra: Năm 2008, ông N. khởi kiện yêu cầu tòa buộc người khác trả lại cho ông hơn 1.000 m2 đất cùng vườn cây ăn trái. Nhận đơn, TAND một huyện đã tách ra, không thụ lý yêu cầu đòi đất vì đất chưa có giấy tờ nhưng lại thụ lý, giải quyết yêu cầu đòi vườn cây ăn trái (tài sản gắn liền với đất). Sau đó, TAND tỉnh đã tuyên y án sơ thẩm. Tuy nhiên đến năm 2010, Tòa Dân sự TAND Tối cao đã xử giám đốc thẩm, hủy cả hai bản án trên vì cho rằng tranh chấp không thuộc quyền giải quyết của tòa án do đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai.
Theo Tòa Dân sự TAND TP.HCM, quanh vụ án trên đã có hai cách hiểu: Cách hiểu thứ nhất cho rằng tòa không được thụ lý, giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất nhưng có quyền giải quyết tranh chấp về tài sản gắn liền với đất nếu các đương sự nộp đủ chứng cứ. Cách hiểu thứ hai cho rằng tòa chỉ được giải quyết tranh chấp về tài sản gắn liền với đất nếu mảnh đất đó có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai. Trong vụ này, lẽ ra tòa phải tạm đình chỉ việc giải quyết tranh chấp vườn cây, chuyển giao cho UBND cấp huyện giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất trước. Sau đó, trên cơ sở UBND giao đất cho bên nào sử dụng thì tòa mới quay lại giải quyết phần tranh chấp vườn cây.
Trước hai cách hiểu này, Tòa Dân sự TAND TP đã đề nghị TAND Tối cao sớm có hướng dẫn cụ thể để áp dụng thống nhất.
Một số kinh nghiệm xét xử
- Với tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, phải nghiên cứu Nghị quyết 02 năm 2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao.
- Với các giao dịch cho mượn, cầm cố, tặng cho thực hiện trước khi có Luật Đất đai 2003 đều bị xem là vô hiệu.
- Với các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tòa chỉ công nhận khi có đủ các điều kiện: Người tham gia ký kết có đủ năng lực hành vi dân sự; hoàn toàn tự nguyện; mục đích ký kết không vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội và đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Với các hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nếu người chuyển nhượng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì tòa phải tuyên hợp đồng đặt cọc vô hiệu (trừ khi đặt cọc để đảm bảo việc hợp thức hóa trước khi chuyển nhượng).
- Với các hợp đồng cho tặng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, tòa phải chú ý thời điểm có hiệu lực của hợp đồng cho tặng để xác định đúng văn bản quy phạm pháp luật áp dụng…
(Một số hướng dẫn về đường lối giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa Dân sự TAND TP.HCM)
Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15-10-1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan nhưng đến trước ngày luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
5.  Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của TAND, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định…
(Trích khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai)
Nguồn: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM

Thứ Bảy, 12 tháng 2, 2011

ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ VÀ MỐI QUAN HỆ HIỆU LỰC GIỮA HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP TÀI SẢN VỚI HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Không thể phủ nhận rằng, thế chấp tài sản là biện pháp bảo đảm có rất nhiều ưu thế so với các biện pháp bảo đảm khác, xét từ góc độ tính tiện dụng cho các bên liên quan (bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm). Vì lẽ đó, các tổ chức tín dụng và khách hàng vay trong quan hệ vay vốn thường ưu tiên lựa chọn biện pháp bảo đảm này. Tuy nhiên, để xử lý tốt mối quan hệ lợi ích giữa các bên trong hợp đồng thế chấp tài sản, điều rất quan trọng là phải nhận diện đúng đặc trưng pháp lý của mỗi loại hợp đồng này và mối quan hệ về hiệu lực giữa chúng với nhau. Bài viết này có mục tiêu giải quyết vấn đề đó, góp phần làm rõ cơ sở lý luận cho việc ứng dụng và thực thi pháp luật về thế chấp tài sản trong quan hệ vay vốn tại tổ chức tín dụng.
1. Đặc điểm pháp lý của hợp đồng thế chấp tài sản và hợp đồng tín dụng trong hoạt động cho vay có bảo đảm của tổ chức tín dụng
Đặc điểm pháp lý của hợp đồng thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng
Trong khoa học pháp lý cũng như trong pháp luật thực định ở Việt Nam, giao dịch bảo đảm được định nghĩa là hợp đồng mà theo đó một bên (gọi là bên bảo đảm) cam kết với bên có quyền (gọi là bên nhận bảo đảm) về việc sẽ thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ cụ thể đối với bên có quyền, nếu đến hạn mà nghĩa vụ hoặc các nghĩa vụ đó không được người có nghĩa vụ thực hiện[1]. Giao dịch bảo đảm có nhiều loại khác nhau nhưng phổ biến nhất vẫn là giao dịch bảo lãnh, giao dịch cầm cố và giao dịch thế chấp. Đây cũng là những biện pháp bảo đảm nghĩa vụ được áp dụng phổ biến nhất trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Với tư cách là một giao dịch bảo đảm, giao dịch thế chấp (hay hợp đồng thế chấp) là thỏa thuận giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp, theo đó bên thế chấp cam kết sẽ đem các tài sản của mình để bảo đảm thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ của chính mình hoặc của người thứ ba (bên có nghĩa vụ) đối với bên nhận thế chấp mà không cần phải chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp[2].
Xét về phương diện học thuật, ngoài những đặc điểm mang tính bản chất của hợp đồng thế chấp nói chung, hợp đồng thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng còn có những đặc trưng pháp lý sau đây:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay luôn có một bên là tổ chức tín dụng – với tư cách là bên nhận thế chấp (bên có quyền đòi nợ theo hợp đồng tín dụng). Ngoài ra, chủ thể thứ hai là bên thế chấp và chủ thể này có thể chính là bên vay hoặc người thứ ba có tài sản thế chấp cho tổ chức tín dụng.
Do chủ thể nhận thế chấp là tổ chức tín dụng nên việc phòng tránh rủi ro tín dụng cho chủ thể này là vấn đề hết sức quan trọng, được pháp luật quan tâm đặc biệt vì mục tiêu giữ vững an toàn của hệ thống ngân hàng và đảm bảo lợi ích quốc gia.

Thứ hai, nghĩa vụ được bảo đảm bằng hợp đồng thế chấp thường là nghĩa vụ hoàn trả tiền vay theo hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng vay vốn[3]. Nghĩa vụ này phát sinh từ hợp đồng tín dụng, bao gồm nợ gốc, nợ lãi, các khoản phí, tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác[4].
Thực tế cho thấy, do nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong hợp đồng tín dụng thường có giá trị lớn và có tính rủi ro cao nên hầu hết các tổ chức tín dụng khi cho vay đều mong muốn sử dụng biện pháp bảo đảm tiền vay để phòng tránh rủi ro cho các khoản tín dụng đã cung cấp. Chính vì vậy, các hợp đồng thế chấp hiện nay được giao kết chủ yếu là nhằm bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tiền vay phát sinh từ các hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng. Thực tế đó, càng chứng tỏ vai trò của các biện pháp bảo đảm tiền vay nói chung và biện pháp thế chấp tài sản nói riêng đối với yêu cầu bảo đảm quyền chủ nợ cho các tổ chức tín dụng trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, trong quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách hàng, do tổ chức tín dụng rất coi trọng vai trò tác dụng của các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tiền vay nên hợp đồng bảo đảm nói chung và hợp đồng thế chấp nói riêng thường được các bên (tổ chức tín dụng và bên bảo đảm) giao kết thành một hợp đồng riêng, tách khỏi hợp đồng tín dụng, với nhiều điều khoản chi tiết và rất cụ thể. Điều này là cần thiết, vì việc giao kết một hợp đồng thế chấp riêng rẽ với hợp đồng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho các bên có cơ hội thỏa thuận chi tiết, cụ thể và đầy đủ hơn về các điều khoản của hợp đồng bảo đảm tiền vay. Trên cơ sở đó, giúp cho việc thực hiện hợp đồng bảo đảm và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo đảm tiền vay cũng dễ dàng, thuận lợi hơn.
Đặc điểm pháp lý của hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp tài sản
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ cho vay, tổ chức tín dụng có thể lựa chọn giữa việc cho khách hàng vay vốn với điều kiện có bảo đảm bằng tài sản hoặc cho vay không cần bảo đảm bằng tài sản. Nếu ở nhiều nước trên thế giới, các khoản cho vay có bảo đảm của tổ chức tín dụng đối với khách hàng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ (do tổ chức tín dụng có thể áp dụng các biện pháp khác để quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả hơn, ít tốn kém hơn) thì trái lại, ở Việt Nam các tổ chức tín dụng lại chủ yếu cho vay trên cơ sở điều kiện bảo đảm bằng tài sản. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì vốn dĩ các tổ chức tín dụng Việt Nam không có khả năng và kinh nghiệm quản trị rủi ro tốt như các tổ chức tín dụng nước ngoài. Do đó, nếu muốn an toàn trong cho vay, chỉ có thể trông chờ vào cái “phao cứu sinh” được coi là hiệu quả nhất, đó là yêu cầu khách hàng phải có sự bảo đảm bằng các tài sản cho nghĩa vụ hoàn trả nợ vay khi đến hạn thanh toán đối với tổ chức tín dụng.
Theo ý kiến chúng tôi, ngoài những đặc điểm chung giống như mọi hợp đồng tín dụng thì hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp tài sản còn thể hiện những đặc trưng pháp lý sau đây:
Thứ nhất, trong hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp tài sản, do bên thế chấp không phải chuyển giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp là tổ chức tín dụng nên việc kiểm soát của bên nhận thế chấp đối với tài sản bảo đảm có phần khó khăn hơn. Điều này có ảnh hưởng ít nhiều đến khả năng thu hồi vốn của tổ chức tín dụng khi đến hạn thanh toán nợ, bởi lẽ trên thực tế, các tài sản đem thế chấp cho một hoặc nhiều khoản vay tại tổ chức tín dụng vẫn nằm trong sự “quản thủ” của bên thế chấp hoặc của người thứ ba được chỉ định hay được phép quản lý tài sản thế chấp, trong suốt thời gian thế chấp.
Đôi khi, do các quy định khá “thông thoáng” của pháp luật về thế chấp tài sản nên bên thế chấp có thể yêu cầu tổ chức tín dụng cho phép được bán tài sản thế chấp hoặc cho thuê đối với người thứ ba ngay trong quá trình thế chấp[5]. Chính sự đặc thù này khiến cho bên chủ nợ là tổ chức tín dụng phải có những giải pháp khác để hỗ trợ cho quá trình quản lý nợ vay và phòng tránh rủi ro tín dụng khi khách hàng vay không trả được nợ, trong khi tài sản thế chấp lại rất khó kiểm soát[6].
Thứ hai, trong hợp đồng tín dụng có bảo đảm nói chung và bảo đảm bằng thế chấp tài sản nói riêng, luôn tồn tại mối quan hệ về hiệu lực giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng thế chấp (hợp đồng bảo đảm tiền vay). Mối quan hệ này là khá phức tạp và do đó, đòi hỏi các bên phải có nhận thức đúng đắn để tự vệ và phòng ngừa các rủi ro tổn thất cho mình. Chẳng hạn, khi hợp đồng tín dụng bị vô hiệu thì hậu quả pháp lý đối với hợp đồng thế chấp là như thế nào và ngược lại? Thực tế cho thấy, trong mỗi trường hợp như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên sẽ có hệ quả khác nhau và do đó, mỗi bên đều phải nắm vững các quy định của pháp luật để tự bảo vệ lợi ích cho mình một cách hiệu quả, đúng pháp luật.
Các phân tích dưới đây, sẽ góp phần làm rõ hơn mối quan hệ này giữa hợp đồng thế chấp tài sản và hợp đồng tín dụng.
2. Mối quan hệ hiệu lực giữa hợp đồng thế chấp tài sản với hợp đồng tín dụng trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng
Đây là vấn đề từng gây tranh cãi lâu nay giữa các nhà nghiên cứu luật học, luật gia, luật sư và những người thực hành pháp luật, không chỉ về phương diện học thuật mà cả trong thực tiễn áp dụng pháp luật, đặc biệt là thực tiễn hoạt động cho vay có bảo đảm của tổ chức tín dụng.
Về phương diện học thuật, vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất liên quan đến mối quan hệ giữa hợp đồng thế chấp tài sản với hợp đồng tín dụng, có lẽ là việc xác định tính độc lập hay tính phụ thuộc giữa hai hợp đồng này. Nói cách khác, mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng bảo đảm tiền vay nói chung và hợp đồng thế chấp tài sản nói riêng có phải là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ hay không?
Thực tế cho thấy, câu trả lời là không giống nhau giữa các học giả quan tâm đến vấn đề này.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản có thể coi là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ.
Trong một thời gian khá dài, do tồn tại những quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng chính và hợp đồng phụ (Điều 405 Bộ luật Dân sự 1995) nên trong khoa học pháp lý và cả trong quá trình xây dựng pháp luật cũng như thực thi pháp luật, đã xuất hiện quan điểm suy luận coi hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính, trong khi hợp đồng bảo đảm tiền vay nói chung và hợp đồng thế chấp tài sản nói riêng có thể coi là hợp đồng phụ[7]. Có lẽ quan điểm này dựa trên lập luận cho rằng, sự bảo đảm chỉ có giá trị khi tồn tại nghĩa vụ được bảo đảm (nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng chính). Do nhìn nhận như vậy, nhiều ý kiến cho rằng, có thể coi mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng bảo đảm tiền vay nói chung và hợp đồng thế chấp tài sản nói riêng là mối quan hệ giữa hợp đồng chính với hợp đồng phụ. Điều này không chỉ tồn tại trong các diễn đàn khoa học mà thực tế đã trở thành những quy định của luật pháp có giá trị bắt buộc thi hành ở Việt Nam trong những năm trước đây[8].
Như vậy, có thể khẳng định rằng, trong lịch sử pháp chế Việt Nam đã từng tồn tại quan niệm cho rằng hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính và hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh là hợp đồng phụ. Điều đó cũng có nghĩa rằng, theo quan điểm này, nếu hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính) bị vô hiệu thì hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh (với tính chất là hợp đồng phụ) cũng đương nhiên bị vô hiệu theo. Ngược lại, nếu hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bị vô hiệu thì không tất yếu hay chắc chắn làm vô hiệu hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính). Trải qua thời gian, quan điểm này đã từng được xem là “chính thống” trong nhiều năm và được các luật sư, tòa án thường xuyên viện dẫn như là một trong những căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết các vụ tranh chấp về hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trong thực tiễn pháp lý cũng như trong các diễn đàn trao đổi học thuật, từng có ý kiến cho rằng, chỉ nên coi hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính và hợp đồng bảo đảm tiền vay (trong đó có hợp đồng thế chấp) là hợp đồng phụ khi cả hai loại hợp đồng này đều có thành phần chủ thể giống nhau, nghĩa là cả hai hợp đồng này đều cùng được giao kết bởi hai chủ thể xác định[9]. Theo ý kiến chúng tôi, nhận thức này không thật chính xác, bởi vì khi nói đến mối quan hệ chính – phụ giữa hai hợp đồng nào đó, chủ yếu là nhằm xác định mối quan hệ ảnh hưởng, chi phối về hiệu lực giữa hai hợp đồng đó với nhau, chứ không giới hạn ở khía cạnh chủ thể của hợp đồng. Nói cách khác, một hợp đồng có thể được coi là hợp đồng chính và một hợp đồng khác có thể được coi là hợp đồng phụ, xét trong mối tương quan về hiệu lực giữa hai hợp đồng này với nhau, bất luận chủ thể ký kết hai loại hợp đồng này có trùng nhau hay không.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng thế chấp không hoàn toàn là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ.
Quan điểm này đã được thể hiện trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (thay thế cho Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999).
Trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006, nhà làm luật đã có sự thay đổi quan niệm theo hướng thực tế hơn, không hoàn toàn coi mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Cụ thể là, Điều 15 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định:
“1. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
3. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Giao dịch bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
5. Trong trường hợp giao dịch bảo đảm không chấm dứt theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều này thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thanh toán nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với mình.”
Theo quy định tại Điều 15 nói trên, nếu áp dụng cho hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp tài sản thì có thể hình dung mối tương quan về hiệu lực giữa hai hợp đồng này (hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp) như sau:
Trường hợp thứ nhất, có hai khả năng xảy ra:
- Nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp bị vô hiệu hoặc đã có hiệu lực nhưng bị hủy bỏ bởi thỏa thuận của các bên hoặc bởi ý chí đơn phương của một bên nhưng chưa được thực hiện thì hợp đồng thế chấp bị chấm dứt. Cần lưu ý rằng theo quy định của điều luật nêu trên thì trong trường hợp này, hợp đồng thế chấp bị chấm dứt, nghĩa là đã có hiệu lực rồi sau đó mới chấm dứt hiệu lực do không cần thiết duy trì hiệu lực của hợp đồng thế chấp nữa, chứ không phải là hợp đồng thế chấp bị vô hiệu ngay từ khi ký kết.
- Nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp bị vô hiệu hoặc đã có hiệu lực nhưng bị hủy bỏ bởi thỏa thuận của các bên hoặc bởi ý chí đơn phương của một bên và đã được thực hiện một phần hoặc toàn bộ thì hợp đồng thế chấp không bị đương nhiên chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận chấm dứt hợp đồng thế chấp này vì thấy không cần thiết phải tiếp tục thực hiện hợp đồng nữa. Trong trường hợp này, nếu hợp đồng thế chấp không bị chấm dứt trong khi tổ chức tín dụng đã giải ngân cho khách hàng thì bên nhận thế chấp (tổ chức tín dụng) có quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi số tiền đã giải ngân cho khách hàng.
Trường hợp thứ hai, hợp đồng thế chấp bị vô hiệu hoặc bị hủy bỏ, chấm dứt đơn phương sẽ không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng tín dụng thỏa thuận hủy bỏ hay chấm dứt hợp đồng này.
Từ việc phân tích, bình luận và khảo cứu các quan điểm trên đây, chúng tôi cho rằng: Xét trong mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng bảo đảm tiền vay thì không thể coi hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính và hợp đồng bảo đảm tiền vay (trong đó có hợp đồng thế chấp tài sản) là hợp đồng phụ. Do đó, cũng không có cơ sở để khẳng định rằng, bản chất mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng thế chấp là quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ, vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, về khía cạnh học thuật, tự thân mỗi hợp đồng này (tức hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp) đều đã có đầy đủ các yếu tố để được coi là một hợp đồng thực thụ. Vì thế, tự nó sẽ phát sinh hiệu lực nếu thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005), chứ không cần phải phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng khác. Điều này có nghĩa, hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản đều là những hợp đồng độc lập, không hề ảnh hưởng và chi phối đến hiệu lực của nhau, cho dù mục đích của việc thiết lập hợp đồng thế chấp là nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng tín dụng.
Từ lập luận như vậy, có thể kết luận rằng, nếu hợp đồng tín dụng bị vô hiệu hoặc bị chấm dứt, hủy bỏ thì cũng không ảnh hưởng gì đến hiệu lực của hợp đồng thế chấp tài sản. Ngược lại, nếu hợp đồng thế chấp tài sản bị vô hiệu hoặc bị chấm dứt, hủy bỏ thì cũng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng và khi đó, hợp đồng tín dụng trở thành hợp đồng không có bảo đảm bằng tài sản.
Thứ hai, về khía cạnh pháp luật thực định, tại Điều 410 Bộ luật Dân sự 2005, tuy nhà làm luật vẫn mô tả rõ bản chất pháp lý của mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ nhưng đồng thời cũng khẳng định rằng, các quy định về mối quan hệ này không áp dụng cho các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự, trong đó có biện pháp thế chấp tài sản[10]. Theo ý kiến chúng tôi, nhà làm luật lựa chọn giải pháp này cho mối quan hệ giữa hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm với hợp đồng bảo đảm là khá hợp lý, vì nó giúp cho bên chủ nợ tránh được những rủi ro về kinh tế trong trường hợp hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà bên chủ nợ (bên nhận bảo đảm) đã thực hiện hợp đồng này với người đối ước.
Từ nhận thức như vậy, chúng tôi cho rằng, cách tiếp cận về mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng thế chấp như Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm là hợp lý và có cơ sở khoa học.
Trên đây là một số ý kiến ban đầu về mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng bảo đảm tiền vay nói chung và hợp đồng thế chấp tài sản nói riêng. Hy vọng rằng, những ý kiến trao đổi này sẽ góp phần làm sáng rõ hơn bản chất của quan hệ cho vay có bảo đảm của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, qua đó, góp phần “giải mã” những khó khăn, vướng mắc lâu nay về phương diện pháp lý trong thực tiễn hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ở Việt Nam.

[1] Xem thêm Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
[2] Tuy nhiên, theo Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan thì thế chấp tài sản được định nghĩa là hợp đồng, trong đó một người gọi là người thế chấp, cam kết “nhượng” một tài sản cho người khác, gọi là người nhận thế chấp như một bảo đảm, để thi hành một nghĩa vụ, nhưng không giao tài sản đó cho người nhận thế chấp (Điều 702 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996. Theo ý kiến chúng tôi, định nghĩa này không được chính xác, do dùng từ “nhượng”, có lẽ là do cách dịch từ nguyên bản.
[3] Theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì ngoài việc bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tiền vay phát sinh từ hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp tài sản còn có thể được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ hoàn trả tiền cho tổ chức tín dụng trong trường hợp hợp đồng tín dụng bị vô hiệu nhưng tổ chức tín dụng đã thực hiện giải ngân cho khách hàng.
[4] Theo quy định tại khoản 1 Điều 319 Bộ Luật Dân sự 2005, nếu các bên không có thỏa thuận hoặc pháp luật không có quy định khác thì nghĩa vụ được bảo đảm được coi là toàn bộ, bao gồm cả khoản lãi và bồi thường thiệt hại.
[5] Theo quy định tại Điều 20, 23 và 24 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì bên thế chấp có quyền bán, cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp, nếu được sự đồng ý của bên nhận thế chấp. Riêng đối với tài sản thế chấp là hàng hóa luân chuyển thì khi bên thế chấp chuyển nhượng cho người thứ ba, không nhất thiết phải có sự đồng ý của bên nhận thế chấp.
[6] Trong thực tiễn cho vay của tổ chức tín dụng, các biện pháp hỗ trợ quản lý rủi ro thường được áp dụng bao gồm: Phân tích, đánh giá hồ sơ tín dụng một cách cẩn thận và kỹ lưỡng; quản lý và kiểm soát chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng; yêu cầu khách hàng vay áp dụng các biện pháp bảo quản và bảo toàn tài sản thế chấp; nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các nhân viên tín dụng…
[7] Trước đây, theo Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Quy định này đã thể hiện quan điểm của người soạn luật cho rằng, hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh chỉ là hợp đồng phụ, xét trong mối quan hệ với hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ mà nó bảo đảm (gọi là hợp đồng chính).
[8] Cũng theo Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính Phủ về giao dịch bảo đảm, người soạn luật cho rằng “giao dịch bảo đảm bị vô hiệu không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp giao dịch bảo đảm là điều kiện có hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm” (Khoản 2 Điều 16 Nghị định số 165/1999/NĐ-CP). Tương tự, Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 178/1999/NĐ-CPngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay cũng quy định theo hướng như vậy, tuy có điểm khác biệt là trong mọi trường hợp, sự vô hiệu của giao dịch bảo đảm không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng được bảo đảm bằng giao dịch đó (khoản 8 Điều 1 Nghị định số 85/2002/NĐ-CP). Sự thay đổi này có lẽ xuất phát từ mục tiêu của nhà làm luật là muốn bảo vệ tối đa quyền lợi cho bên nhận bảo đảm là tổ chức tín dụng.
[9] Luật sư Đỗ Hồng Thái đã thể hiện quan điểm như vậy trong một bài viết trên trang thông tin điện tử Luật Việt. Nguồn:
http://www.luatviet.org/Home/nghien-cuu-trao-doi/dan-su-to-tung-dan-su/2009/8515/Hop-dong-bao-lanh-khong-the-xem-la-hop-dong-phu-cua.aspx.
[10] Xem thêm khoản 2 và khoản 3 Điều 410 Bộ luật Dân sự 2005.
Nguồn: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ 17/2010

ĐÁNH ĐU VỚI PHÁP LUẬT

Sống và làm việc theo pháp luật đã trở thành một đòi hỏi tất yếu, không bàn cãi. Tuy nhiên, mỗi năm lại nảy sinh nhiều điều khó khăn, vướng mắc từ luật pháp. Do sự bất cập từ con người, cơ chế chính sách, cho đến chính pháp luật.
“Hủ tục” hành chính
Thủ tục hành chính từ lâu đã trở thành những rào cản ghê gớm thách thức sự phát triển. Câu chuyện bức xúc dài kỳ ấy cuối cùng cũng đã được “cắt tỉa” bằng mấy chục Nghị quyết của Chính phủ về đơn giản hoá thủ tục hành chính trong tháng 12-2010. Tuy nhiên, cũng chỉ là hy vọng trong tương lai thôi, vì nó mới chỉ là chỉ đạo định hướng, chứ chưa phải là văn bản pháp quy để có thể áp dụng được ngay. Muốn thành hiện thực, thì còn phải chờ đợi sửa đổi dễ tới cả ngàn văn bản luật, nghị định và thông tư liên quan.
Nếu quyết tâm thì hoàn toàn có thể bỏ được 30% số thủ tục hành chính, nhưng điều đó chưa đáng gì so với những thủ tục “hành là chính”. Một thủ tục hành chính dù hợp lý, cần thiết đến đâu, một khi đã bị biến dạng thành “hủ tục” thì cũng đều trở thành tai hoạ. Thủ tục cấp giấy chứng nhận về bất động sản là vô cùng cần thiết và quy định cũng không quá rắc rối, phức tạp. Thế nhưng đến ông Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường còn phải nghiến răng chịu mất “oan” hơn chục triệu đồng để lấy được “sổ đỏ”. Như vậy, vị tổng tư lệnh về “điền thổ” đã công khai “làm gương” cho thiên hạ kéo “cờ trắng” đầu hàng “hủ tục”. Vì vậy, để đạt được hiệu quả thật sự, thì còn phải chờ “sửa” được cả cung cách và tư cách của nhiều vạn người đang là công bộc phục vụ nhân dân. Điều này khó hơn gấp cả trăm, ngàn lần việc cải cách thủ tục hành chính.
Vì có quá nhiều việc, nên vẫn có những việc thiết thực nhưng chưa bao giờ được đưa vào tầm ngắm cải cách thủ tục hành chính. Đó là những việc tưởng chừng vô cùng nhỏ nhặt, nhưng nếu chỉ quan tâm một chút thôi, thì cũng có thể tiết kiệm được cả núi tiền của. Đơn cử như các mẫu biểu về đăng ký kinh doanh lâu nay, tuy được làm mới mấy lần nhưng có thể nói là trình độ đánh máy, trình bày văn bản vẫn dừng lại ở mức i tờ, kiểu như đánh hàng trăm dấu chấm quá đỗi thủ công để kẻ dòng, thay vì chỉ cần nhấn một phím “táp”. Chỉ cần một người có trình độ tin học cơ bản, chịu khó chỉnh sửa trong một vài ngày, thì đỡ khổ cho hàng triệu lượt người phải bực mình, tốn kém không biết bao nhiêu thời gian, công sức để sửa mẫu mà vẫn thiếu chuẩn mực.

Vụ việc lớn, lỗ hổng to
Quá trình xử lý vụ gây ô nhiễm môi trường tai hại nhất từ xưa đến nay, trong đó thủ phạm là Công ty Vedan, lại nổi lên đều day dứt bế tắc đã lâu của pháp luật. Đến bao giờ mới chèn thêm được mấy điều xử tội hình sự đối với doanh nghiệp gây ra ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng? Bao nhiêu năm nay, các cơ quan hữu quan vẫn cứ say sưa với lý sự tranh cãi về việc có hay không việc xử phạt hình sự pháp nhân, trong khi thiên hạ đã quyết việc này từ thuở nào.
Vụ vỡ nợ của Tập đoàn Vinashine là một kỷ lục chưa từng có. Nhưng khi nhắc đến trách nhiệm, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thắng thắn cho rằng mình không có trách nhiệm gì cả. Thậm chí chính Quốc hội mới là địa chỉ phải chịu trách nhiệm, vì đã bấm nút thông qua những điều luật sơ hở, giao quyền tự quyết quá lớn cho công ty nhà nước. Nếu như chỉ xét về khía cạnh pháp lý, thì đó là một điều khó có thể chối cãi. Chỉ có điều, như vậy thì trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm quản lý vẫn sẽ mãi là một lỗ hổng lớn.
Vụ Techcombank đẩy vọt lãi suất từ 14 lên 17%/năm vào tháng 12-2010, đã cho thấy khoảng trống pháp luật cứ tiếp tục bị bỏ ngỏ suốt mấy năm nay. Cú vượt trần lãi suất của các ngân hàng từ năm 2008, đã bộc lộ tình trạng bất cập “Tuyên bố xử phạt các ngân hàng vượt trần lãi suất đã được ban ra. Chỉ có điều, về luận lý thì có thể là không sai, nhưng về pháp lý thì lại là không đúng.” (Luật sư Trương Thanh Đức, bài “Luật lệ lắt léo, bóp méo thị trường”, Tạp chí Nhà Quản lý số 60/2008). Hơn 2 năm đã trôi qua, vi phạm về vượt trần lãi suất vẫn không hề được bổ sung vào Nghị định về Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Thế nhưng, năm 2010 Ngân hàng Nhà nước vẫn cứ xử phạt cảnh cáo Techcombank vì huy động lãi suất cao, vẫn giống như đã xử phạt cho vay vượt trần lãi suất mà không có cơ sở pháp lý từ 2 năm trước.
Thuế cao, phí nặng
Lại một năm giá cả leo thang chóng mặt, mọi thứ đều tăng giá, chỉ riêng tiền tệ và ngân hàng là mất giá. Trong bối cảnh ấy, càng thấy gánh nặng của các khoản thuế, phí và lệ phí, mà thuế thu nhập cá nhân là một điển hình về việc đánh thuế một cách bất hợp lý.
Pháp lệnh Phí và lệ phí năm 2001 quy định mức thu lệ phí “không nhằm mục đích bù đắp chi phí”, tức nó chỉ là một khoản thu rất thấp để trang trải một phần chi phí đối với các cơ quan nhà nước. Thế nhưng lệ phí trước bạ, theo Nghị định số 176/1999/NĐ-CP ngày 21-12-1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2003 và 2008), lại có thể lên đến 15% giá trị xe ô tô. Rồi từ cuối năm 2010 dự thảo Nghị định mới lại dự kiến sẽ đưa lên đến 20%. Thu theo tỷ lệ cao như thế thì là đánh thuế theo luật thuế, chứ sao cứ gượng ép gọi là lệ phí được?
Cũng liên quan đến phí cao, không thể bỏ qua phí công chứng. Mặc dù đã sau 3 năm thực hiện, với tỷ lệ lạm phát mấy chục phần trăm, nhưng vẫn thấy mức phí cao về công chứng giao dịch bất động sản. Với mức phí công chứng tối đa là 10 triệu đồng, mỗi ngày một công chứng viên chỉ cần chứng nhận một hợp đồng, thì một năm đã kiếm được vài tỷ đồng. Mà hầu hết giao dịch mua bán, chuyển nhượng, thế chấp, cho thuê,… nhà đất thì lại bắt buộc phải công chứng.
Phí xây dựng cũng là một gánh nặng đối với thị trường bất động sản, là một trong những thủ phạm làm cho giá nhả ở đứng vào nhóm đỉnh của thế giới. Mức phí này cao hay thấp thuộc toàn quyền của chính quyền địa phương, nhiều nơi thu đến mấy phần trăm giá trị công trình. Thế thì lại là thuế bất động sản, chứ đâu còn là phí nữa. Cuối năm vừa qua, Thủ tướng đã mạnh tay quyết định miễn loại phí này. Đỡ một gánh nặng cho bao người ky cóp từng đồng mong mỏi có căn nhà thoát cảnh chui rúc.
Luật khung, luật ống
Luật là những quy định cơ bản nhất, quan trọng nhất, phải ấn định được cái gì là hợp pháp hay phi pháp, được làm hay không được làm. Nhưng ở ta thì không phải thế, vì luật vẫn là luật khung, luật ống, vẫn đóng vai phụ, còn nghị định, thông tư vẫn có vai trò quyết định chi phối trong nhiều trường hợp.
Những nhà đầu tư chứng khoán mừng bao nhiêu trước vụ việc đầu tiên bị truy tố tội thao túng giá chứng khoán ở Công ty DVD, thì lại lo bấy nhiêu trước số phận của mình. Có tội hay không có tội thao túng giá chứng khoán, không vì luật mà phụ thuộc vào nhận định của cơ quan điều tra. Bộ luật Hình sự không chỉ ra được vạch cấm để phân biệt giữa việc vi phạm hành chính với hành vi phạm tội thao túng giá chứng khoán. Thị trường chứng khoán vẫn tiếp tục phải chờ đợi văn bản hướng dẫn để phân biệt ranh giới mong manh giữa phạm tội và vô tội trong một lĩnh vực hết sức nhạy cảm. 
Tưởng đâu luật khung, luật ống như vậy thì chúng sẽ “trường thọ”, ổn định lâu dài. Ấy vậy mà nhiều đạo luật cũng chỉ duy trì gượng gạo được một vài năm. Đời sống của các đạo luật quá ngắn, chỉ vài ba năm đã phải sửa đổi, bổ sung, thậm chí phải thay thế. Rất hiếm đạo luật “sống” trọn vẹn được 10 năm mà không phải sửa đổi, bổ sung một vài lượt. Luật Nhà ở đi vào đời sống năm 2006, năm 2009 đã phải sửa. Luật Chứng khoán có hiệu lực năm 2007, năm 2010 đã phải sửa. Luật Thuế thu nhập cá nhân thực hiện từ năm 2009, đầu năm 2011 đã phải trình sửa cấp tốc. Đáng tiếc là những lý do sửa đổi này đã được chỉ rõ từ khi chuẩn bị ban hành (như mức khởi điểm tính thuế, mức miễn trừ gia cảnh và thuế suất). Một quy định thường phải mất nhiều năm tháng mới đi vào cuộc sống, nhưng chưa kịp làm quen với quy định mới, thì đã thành điều luật quá khứ. Luật pháp điều chỉnh cuộc sống ví như luật chơi điều khiển cuộc chơi, nếu cứ bị thay đổi liên tục, thì người chơi ắt tối tăm mặt mũi và khó tài nào tránh được việc phạm luật.
Luật khung, luật ống còn dẫn đến tình trạng thông tư, nghị định thay đổi như chong chóng, gây mất ổn định cho đời sống xã hội. Câu chuyện hình thức, nội dung của “bìa đỏ”, “bìa trắng”, “bìa hồng”, rồi việc giải toả, đền bù, ghi nợ tiền sử dụng đất,… là một ví dụ điển hình. Hay lãi suất cơ bản có hiệu lực ngay trong ngày công bố như Quyết định số 2619/QĐ-NHNN ngày 05-11-2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, thì có bao nhiêu dân thường cập nhật được tức thời để mà thực hiện cho đúng những điều quy định về lãi suất trong Bộ luật Dân sự?
Nhưng rồi, lại giật mình với một đạo luật quy định cụ thể, chi tiết, thì sự bất cập cũng lại nảy sinh chính từ sự tiến bộ ấy. Luật Công chứng năm 2006 được hết lời khen ngợi vì đã tạo ra nhiều văn phòng công chứng phục vụ tốt nhu cầu, thì chưa đầy 3 năm sau chính điều ấy lại bị phê phán là quá dễ dãi, và yêu cầu phải sửa đổi theo hướng thắt chặt trở lại. Thế là luật khung, luật ống, chung chung cũng không được, mà luật cụ thể, chi tiết cũng không xong!
Luật cũng “lách” luật


Nguồn: TẠP CHÍ NHÀ QUẢN LÝ SỐ XUÂN TÂN MÃO 2011