Thứ Năm, 30 tháng 12, 2010

MUA NỢ PHẢI THU VÀ PHƯƠNG PHÁP HẠNH TOÁN

Cùng với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, Việt Nam sắp gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Họat động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng được mở rộng, đa dạng về loại hình và đa dạng về phương thức huy động vốn. Trong đó, việc mua bán các công cụ nợ trên thị trường tài chính sẽ diễn ra hết sức đa dạng và trở nên phổ biến hơn. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ đề cập đến phương pháp hạch toán họat động mua các khoản nợ phải thu của đơn vị khác.
Giao dịch mua nợ phải thu là việc mua các khoản nợ phải thu của các đơn vị khác dựa trên sự thỏa thuận giữa bên mua và bên bán.
Giá mua các khoản phải thu là số tiền do các bên thoả thuận trong giao dịch bán khoản phải thu, được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm so với số tiền nợ mà con nợ còn phải trả cho bên bán, nhưng không thấp hơn nợ gốc trừ đi số tiền mà bên bán đã thu hồi được từ con nợ.
Bên mua có “Quyền truy đòi trong giao dịch mua bán khoản phải thu” là quyền của bên mua yêu cầu bên bán thực hiện nghĩa vụ trả tiền đối với bên mua khi kết thúc Hợp đồng bán khoản phải thu.
Khi mua các khoản nợ phải thu cần lưu ý:
- Yêu cầu bên bán cung cấp đầy đủ, kịp thời và trung thực cho bên mua các tài liệu có liên quan đến việc bán khoản phải thu theo thoả thuận giữa hai bên và theo quy định của pháp luật.
- Yêu cầu bên bán chuyển giao toàn bộ hồ sơ đã công chứng về hợp đồng kinh tế và các giấy tờ liên quan đến khoản phải thu (nếu hai bên thoả thuận tại Hợp đồng bán khoản phải thu).
- Được bán khoản phải thu cho bên mua khác với điều kiện bên mua mới cam kết thực hiện đúng các quy định tại Hợp đồng bán khoản phải thu.
- Nhận tiền do bên bán trả theo thoả thuận tại Hợp đồng bán khoản phải thu đến khi trả hết tiền và chấm dứt Hợp đồng bán khoản phải thu.
- Khởi kiện bên bán theo quy định pháp luật khi bên bán vi phạm nghĩa vụ đã cam kết.
- Thực hiện quyền truy đòi trong trường hợp bên bán vi phạm Hợp đồng bán khoản phải thu.
Nghĩa vụ của bên mua
- Thanh toán cho bên bán theo thoả thuận tại Hợp đồng bán khoản phải thu.
- Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với bên bán theo thoả thuận tại Hợp đồng bán khoản phải thu.
- Thông báo cho bên bán về việc khoản phải thu đã được chuyển nhượng cho bên mua khác.
- Lưu giữ hồ sơ và các giấy tờ liên quan đến khoản phải thu theo đúng quy định của pháp luật; đồng thời giao lại toàn bộ hồ sơ cho bên bán khi thanh lý Hợp đồng bán khoản phải thu.
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật và Hợp đồng bán khoản phải thu.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua nợ phải thu, bên mua có quyền chấm dứt hợp đồng trước thời hạn, nếu:
- Bên bán vi phạm các điều khoản của Hợp đồng bán khoản phải thu.
- Bên bán bị phá sản, giải thể và bên mua không chấp thuận chuyển giao Hợp đồng bán khoản phải thu cho bên thứ ba.
- Hợp đồng cho thuê tài chính bị chấm dứt trước hạn và bên mua không đồng ý thay thế bằng một khoản phải thu từ Hợp đồng cho thuê tài chính khác.
Nếu xảy ra việc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn như trên, bên bán phải trả cho bên mua toàn bộ số tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ số tiền bên bán đã trả cho bên mua theo Hợp đồng bán khoản phải thu; Bên bán phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên mua theo quy định tại Hợp đồng bán khoản phải thu. Trường hợp bên bán không trả tiền mua khoản phải thu còn lại trong thời hạn do bên mua yêu cầu, thì bên mua được quyền khởi kiện bên bán theo quy định của pháp luật.
Từ những nội dung liên quan đến việc thực hiện họat động mua các khoản nợ phải thu, chúng tôi đưa ra phương pháp hạch toán như sau:
1. Quy định hạch toán liên quan đến việc mua các khoản nợ phải thu:
- Giá mua các khoản nợ phải thu là giá dựa trên sự thỏa thuận của bên mua và bán trong hợp đồng.
- Chi phí đàm phán, giao dịch trước khi ký kết hợp đồng và các chi phí khác liên quan đến việc mua nợ phải thu được hạch toán vào chi phí tài chính theo nguyên tắc kỳ kế toán.
- Lãi (hoặc lỗ) từ họat động mua các khoản nợ phải thu được xác định theo công thức sau:
Lãi (lỗ) mua các khoản nợ phải thu = Giá trị thanh toán của các khoản nợ phải thu – Giá mua các khoản nợ phải thu
2. Phương pháp hạch toán
a. Khi tiến hành đàm phán, ký kết hợp đồng căn cứ vào chứng từ kế toán phát sinh toàn bộ chi phí liên quan, kế toán ghi:
      Nợ TK142-Chi phí trả trước ngắn hạn
            Có TK111,112
b. Khi mua các khoản phải thu:
b.1. Phản ánh giá mua:
      Nợ TK128, 228 – Các khoản phải thu ngắn hạn, dài hạn
            Có TK111, 112
b.2. Phản ánh các chi phí liên quan phát sinh khi mua:
      Nợ TK635 – Chi phí tài chính
            Có TK111,112
b.3. Kết chuyển chi phí giao dịch, ký kết hợp đồng:
      Nợ TK635 – Chi phí tài chính
            Có TK142- Chi phí trả trước ngắn hạn
c. Định kỳ, bên bán thanh toán các khoản nợ phải thu thu hồi được cho bên mua, căn cứ vào chứng từ phát sinh, kế toán ghi:
      Nợ TK111,112 – Số tiền thanh toán mỗi kỳ
            Có TK128, 228
d. Khi đáo hạn hợp đồng
Khi đáo hạn hợp đồng, kế toán tiến hành kiểm tra số tiền nợ phải thu bên bán đã thanh toán để xác định số tiền còn lại bên bán phải thanh toán, đồng thời xác định lãi (lỗ) từ họat động mua các khoản nợ phải thu. Căn cứ vào chứng từ kế toán ghi:
      Nợ TK111, 112 -
            Có TK128, 228 – Giá mua các khoản phải thu còn lại chưa thanh toán
            Có TK515 – Chênh lệch giữa giá thanh toán của nợ phải thu và giá mua
* Trường hợp bên mua hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn do lỗi thuộc về bên bán, kế toán tiến hành định khoản:
      Nợ TK111,112 – Giá mua còn lại chưa thanh toán và tiền phạt
            Có TK128, 228 – Giá mua còn lại chưa thanh toán
            Có TK711 – Thu nhập khác (tiền phạt)
* Trường hợp bên mua hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn do lỗi thuộc về bên mua, kế toán tiến hành định khoản:
      Nợ TK111,112 – Giá mua còn lại chưa thanh toán sau khi trừ tiền phạt
      Nợ TK811 – Chi phí khác (tiền phạt)
            Có TK128, 228 – Giá mua còn lại chưa thanh toán
Trên đây là một số vấn đề chúng tôi muốn trao đổi cùng bạn đọc về phương pháp hạch toán nghiệp vụ mua các khoản nợ phải thu.
Nguồn: KIEMTOAN.COM.VN

TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG THIẾU

Các bên:
  • Nguyên đơn: Người mua Cuba
  • Bị đơn: Người bán Trung Quốc.
Tóm tắt vụ việc:
Ngày 25/12/1986, nguyên đơn và bị đơn ký kết một hợp đồng mua bán theo đó bị đơn phải cung ứng 19.500 tá quần áo trẻ em sợi hỗn hợp với số lượng và giá cả khác nhau. Tổng trị giá hợp đồng là 404.415 USD, FOB cảng Trung Quốc, đóng vào hộp giấy, gửi hàng đi vào quý 1 và quý 2/1987. Tháng 6/1987, bị đơn giao 900 hộp giấy chứa hàng hoá theo hợp đồng. Số hàng này đã được bốc lên tàu của Cuba và đã rời đi cảng Havana, Cuba. Theo nguyên đơn, khi hàng đến cảng Havana nguyên đơn đã xác nhận rằng bề ngoài của số thùng giấy là không có vấn đề gì nhưng có một số thùng có trọng lượng không đủ. Nguyên đơn đã vận chuyển số hàng nói trên vào kho. Cơ quan giám định sở tại đã xác nhận thiếu 606 quần/áo trong 19 thùng hàng được giám định (trong số 300 thùng) so với NQ 9114, B/L52, hoá đơn SUL 30047 được giao. Kết quả giám định 61 thùng hàng theo NQIOO58-4, B/L53, hoá đơn SUL 30048 xác định thiếu 1.845 quần/áo. Nguyên đơn hi vọng sẽ đạt được một thoả thuận thông qua đàm phán với bị đơn, nhưng bị đơn đã không chấp nhận đàm phán. Căn cứ vào Điều 42 Các điều kiện chung về giao hàng, nguyên đơn cho rằng bị đơn phải chịu trách nhiệm cho số hàng thiếu và yêu cầu bị đơn bồi thường cho các thiệt hại về kinh tế như sau:


  • Khoản tiền 4.245,01 USD thanh toán cho số hàng giao thiếu, bao gồm: 606 quần/áo, tương đương với 50,5 tá theo NQ9114 với giá 22,29 USD/tá, là 1.125,65 USD; 1.854 quần/áo, tương đương với 154,5 tá theo NQ10058-4 với giá 20,19 USD/tá, là 3.119,36 USD;
  • Phí giám định 180 USD; Phí trọng tài.
Trong văn bản trả lời, bị đơn giải trình như sau:
Theo các quy định tại Điều 14 Các điều kiện chung về giao hàng, số lượng và khối lượng của hàng hoá được xác định theo vận đơn đường biển. Sau khi hàng đã được bốc lên tàu, Bị đơn nhận vận đơn sạch do thuyền trưởng phát hành xác nhận hàng hoá hợp lệ và phù hợp với số lượng ghi trong hoá đơn và bản chứng nhận số thùng hàng với các chi tiết ghi trên vận đơn. Ngoài ra, từ các tài liệu do nguyên đơn trình, 71 thùng (30-40% trong tổng số 120 thùng) thiếu về số lượng, và hầu hết là thiếu loại quần áo cỡ 36 hoặc 48. Nếu tình trạng này nghiêm trọng đến mức như nguyên đơn biện luận thì chắc chắn có nhiều thùng hàng rỗng hoặc đã bị mở và nếu thế thì thuyền trưởng chắc chắn đã không ký vận đơn sạch. Hơn nữa, nguyên đơn cũng đã xác nhận rằng khi được chuyển đến, các thùng hàng vẫn hợp lệ, nguyên đơn đã không trình được chứng nhận giám định hàng hoá để chứng minh hàng bị thiếu về khối lượng và trong thùng có nhiều thứ khác không phải là hàng hoá. Do đó cần phải bác yêu cầu của Nguyên đơn liên quan đến việc giao thiếu hàng.
Điều 15 Các điều kiện chung về giao hàng quy định: “Đơn vị khối lượng và đơn vị đo của bản giám định và xác nhận hàng hoá cung cấp phụ thuộc vào các tài liệu của bên bán”. Xác nhận về số thùng hàng do bị đơn cung cấp chứng minh rằng số hàng được giao phù hợp với các quy định của hợp đồng và cần phải dựa vào bản xác nhận này để xác định số hàng đã giao. Hợp đồng được ký theo điều kiện FOB. Theo các quy định trong Incoterms, một khi hàng hoá đã được chuyển qua lan can tàu tại cảng bốc hàng, mọi rủi ro về mất mát hoặc tổn thất đối với hàng hoá cũng được chuyển cho bên mua. Vì vậy, yêu cầu của nguyên đơn là không có cơ sở.
Phán quyết của trọng tài:
Theo Điều 14 Các điều kiện chung về giao hàng, số lượng hàng do bị đơn giao được xác định theo vận đơn đường biển. Trong các thùng hàng thuộc vận đơn số 52 và 53, số hàngđược ghi lần lượt là 300 và 600 thùng. Mặc dù trên vận đơn đường biển có ghi tổng trọng lượng của hàng hoá, nhưng không ghi số hàng trong từng thùng hoặc khối lượng của mỗi thùng hàng. Theo chứng nhận giám định của Cục giám định hàng hoá Cuba, tất cả các thùng hàng đều hợp lệ. Có tổng số 2.460 quần/áo thiếu trong 71 thùng. Bị đơn đã trình chứng nhận về hàng hoá được đóng vào thùng khi số hàng này còn ở trong nhà máy, nhưng hàng đã không được bốc trực tiếp lên tàu sau khi rời nhà máy mà được vận chuyển bằng nhiều phương tiện, rồi cuối cùng mới được bốc lên tàu. Do đó, không loại trừ khả năng việc thiếu hàng xảy ra trước khi số hàng này được bốc lên tàu. Uỷ ban trọng tài cho rằng Điều 42 Các điều kiện chung về giao hàng đã quy định rõ quyền của các bên được khiếu nại về việc thiếu hàng hoá và do đó bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng này.
  • Bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn 4.425,01 USD là khoản tiền đã trả cho số hàng thiếu, và 180 USD phí giám định.
  • Phí trọng tài do bị đơn chịu.
Nguồn:http://www.dddn.com.vn/Desktop.aspx/TinTuc/Diendan-Luatphap/Tranh_chap_ve_giao_hang_thieu/

TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGŨ CỐC

Các bên:
  • Nguyên đơn: Người bán Singapore
  • Bị đơn: Người mua Việt Nam
Các vấn đề được đề cập:
  • Về chủ thể chính của hợp đồng mua bán giao kết thông qua người đại diện
  • Hàng khuyến mãi và nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu đối với hàng khuyến mãi
  • Tạm ứng hàng cho bên thứ ba trên cơ sở yêu cầu và thoả thuận của bên bán
Tóm tắt vụ việc:
Cty X (cty được nguyên đơn uỷ quyền làm đại diện) ký với bị đơn hai hợp đồng mua bán theo đó nguyên đơn bán cho bị đơn: bột ngũ cốc dinh dưỡng và cà phê Coffeemix trị giá 30.925,47 USD (Hợp đồng thứ nhất) và bột ngũ cốc dinh dưỡng, chè xanh cao cấp… trị giá 8.917,45 USD (Hợp đồng thứ hai).

Trên hai hợp đồng này ghi tên các bên ký kết là tên nguyên đơn và Công ty X và tên bị đơn. Điều kiện giao hàng CIF tại cảng TP HCM không chậm hơn ngày 30/3/1999 (đối với Hợp đồng thứ nhất) và ngày15/9/1999 (đối với Hợp đồng thứ hai); Thanh toán bằng TTR, bị đơn phải chuyển 100% trị giá hoá đơn trong vòng 10 ngày, kể từ ngày nhận được chứng từ vận tải gốc; người hưởng lợi là nguyên đơn. Thực hiện Hợp đồng, nguyên đơn đã chuyển số hàng thuộc Hợp đồng thứ nhất cho bị đơn vào ngày 13/3/1999 và số hàng thuộc Hợp đồng thứ hai tới bị đơn ngày 17/3/1999. Các hoá đơn vận tải gốc của hai hợp đồng này cũng đã được nguyên đơn gửi cho bị đơn. Nhưng bị đơn không thanh toán tiền hàng cho nguyên đơn. Ngày 1/12/1999 nguyên đơn gửi văn thư cho bị đơn để nhắc nhở việc thanh toán tiền hàng theo hai hoá đơn nói trên. Tất cả các văn bản này bị đơn đều đã nhận được. Nhưng bị đơn vẫn không thanh toán số tiền hàng này cho Nguyên đơn. Ngày 29/5/2000, nguyên đơn chính thức kiện bị đơn ra Trung tâm Trọng tài đòi bị đơn phải trả các khoản tiền sau:Tổng số tiền hàng của hai hợp đồng: 39.842,91 USD; Tiền lãi của tiền hàng theo hoá đơn vận tải của hợp đồng thứ nhất lãi suất 11,7%;Tiền lãi của tiền hàng theo hoá đơn vận tải của hợp đồng thứ hai lãi suất 11,7%; Phí trọng tài; Phí dịch thuật: 5.000 USD; Phí liên lạc : 400 USD
Bị đơn trình bày như sau:
Bị đơn không ký bất cứ Hợp đồng nào với nguyên đơn nên nguyên đơn không có tư cách pháp lý để kiện. Tuy nhiên bị đơn thừa nhận có ký kết hai hợp đồng nói trên với Công ty X. Về số tiền hàng: Theo thoả thuận giữa Cty X và bị đơn, trong tổng số 39.842,91 USD tiền hàng của hai hợp đồng đã ký kết có 11.194,92 USD là tiền một phần lô hàng theo hợp đồng thứnhất do Cty X khuyến mãi cho bị đơn.Thực tế khi nhập khẩu số hàng khuyến mãi này bị đơn đã phải nộp 101.066.059 VND là tiền thuế nhập khẩu mà theo bị đơn Công ty X có trách nhiệm phải hoàn lại cho bị đơn. Theo thoả thuận và yêu cầu của Công ty X, bị đơn đã xuất tạm ứng một phần trong tổng số hàng theo hai hợp đồng trên cho Công ty Y với trị giá 287.320.000VND, bị đơn chưa được thanh toán số tiền này. Theo bị đơn, Cty X phải chịu trách nhiệm yêu cầu Cty Y thanh toán cho bị đơn và bị đơn đã có văn thư gửi đến Cty X về việc này. Sau khi tính toán, Cty X còn thiếu của bị đơn là 6.278,80USD. Bị đơn yêu cầu Uỷ ban Trọng tài bác hồ sơ kiện của nguyên đơn, với lý do là nguyên đơn không đủ yếu tố pháp lý để kiện bị đơn.
Về tư cách pháp lý của nguyên đơn: Uỷ ban Trọng tài bác lý lẽ của bị đơn cho rằng nguyên đơn không có tư cách pháp lý để khởi kiện vì các lý do sau đây:
1. Trong cả hai hợp đồng đã ký, tên Người mua là bị đơn và tên Người bán là nguyên đơn và Cty X. Nguyên đơn là một Cty được thành lập hợp pháp theo luật của Singapore. Cty X là Cty được thành lập hợp pháp theo luật Singapore, có văn phòng đại diện tại TP HCM theo giấy phép của Bộ Thương mại VN. Nguyên đơn đã uỷ quyền cho Cty X ký kết các hợp đồng thương mại với các đối tác VN. Như vậy,trong cả hai hợp đồngnguyên đơn là bên bán hợp pháp.
Thứ hai, trên thực tế bị đơn đã nhiều lần tiến hành kinh doanh với nguyên đơn. Vì vậy không có lý do để bị đơn từ chối tư cách người bán của nguyên đơn.
2. Về luật áp dụng cho tranh chấp:Trong cả hai hợp đồng, các bên đều không quy định luật điều chỉnh hợp đồng. Trong một văn thư gửi Uỷ ban Trọng tài, nguyên đơn đã dẫn chiếu đến Điều 233 Luật Thương mại nước CHXHCN VN và Quyết định số 39/1998/QĐ- NHNN ngày 17/1/1999 của NH nhà nước VN. Điều đó thể hiện ý muốn của nguyên đơn áp dụng pháp luật VN. Tuy nhiên, tại phiên họp xét xử, trong khi nguyên đơn vẫn giữ quan điểm chọn pháp luật VN để áp dụng cho việc xét xử thì bị đơn lại không có ý kiến cụ thể về việc này. Trong trường hợp này các bên coi như không thống nhất được với nhau về luật áp dụng. Căn cứ vào các hoàn cảnh thực tế của vụ việc: hợp đồng được ký kết và thực hiện tại VN, tranh chấp phát sinh được giải quyết tại VN, Uỷ ban Trọng tài quyết định luật áp dụng để giải quyết tranh chấp là pháp luật VN.
3. Về việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền hàng của bị đơn: Điều 3 của hai hợp đồng quy định: Người mua, phải chuyển trả tiền cho Người bán, bằng TTR, 100% trị giá hoá đơn trong vòng 10 ngày, kể từ khi nhận được các chứng từ vận tải gốc.
Thực tế nguyên đơn đã chuyển đầy đủ hàng và vận đơn gốc cho bị đơn. Ngày 1/12/1999 (hơn 8 tháng kể từ thời hạn cuối cùng bị đơn phải thanh toán tiền hàng) nguyên đơn đã gửi thư nhắc nhở bị đơn thanh toán đã gia hạn thời hạn thanh toán cho bị đơn thêm 15 ngày, tức là đến ngày 15/12/ 1999.
Như vậy, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Nên, bị đơn phải có trách nhiệm trả cho nguyên đơn toàn bộ trị giá hai lô hàng là 39.842,92 USD.
4. Về tiền hàng khuyến mãi, tiền thuế nhập khẩu hàng khuyến mãi: Sau nhiều lần trì hoãn việc trình chứng cứ về phần hàng khuyến mãi theo giải trình của mình, bị đơn cuối cùng chỉ cung cấp được cho Uỷ ban Trọng tài một bản phôtô giấy ký nhận tiền có chữ ký mà bị đơn khẳng định là chữ ký của ông Trưởng văn phòng đại diện chi nhánh Cty X tại TP HCM. Trên bản phôtô này chỉ ghi số tiền và có một chữ ký, không nói rõ tên người ký và cũng không nói rõ là nhận tiền về việc gì, theo hợp đồng hay hoá đơn nào. Vì vậy, Uỷ ban Trọng tài không thừa nhận giá trị pháp lý của bản phôtô chữ ký mà bị đơn gọi là bằng chứng này và bác bỏ điểm này trong Bản giải trình của bị đơn.
Về việc hoàn thuế NK bị đơn yêu cầu Cty X phải thực hiện, Uỷ ban Trọng tài cho rằng, theo quy định của pháp luật VNthì nghĩa vụ đóng thuế XNK cho hàng hoá đã nhập vào VN là nghĩa vụ của tổ chức có hàng NK – ở đây là nghĩa vụ của bị đơn, trừ khi bị đơn có bằng chứng chứng minh rằng giữa các bên đã có sự thoả thuận rằng đây là hàng khuyến mãi và người bán hàng đồng ý hoàn trả thuế NK lô hàng khuyến mãi cho bị đơn. Thực tế, bị đơn đã không cung cấp được bằng chứng về điều này cho Uỷ ban Trọng tài, do đó, Uỷ ban Trọng tài đã bác lập luận của bị đơn khi yêu cầu nguyên đơn phải trả 101.066.059 VND là tiền thuế cho lô hàng khuyến mãi nêu trên.

Về việc xuất hàng tạm ứng cho Cty Y:
Bị đơn không cung cấp được bằng chứng về yêu cầu của Công ty X bán phần hàng trị giá287.320.000 VND cho Cty Y. Do đó, Uỷ ban Trọng tài (UBTT) bác bỏ lập luận liên quan đến vấn đề này của bị đơn; bác bỏ đề nghị của bị đơn yêu cầu UBTT phải điều tra Cty Y đã nhận hàng xuất tạm ứng. UBTT cho rằng vì Cty Y không phải là một bên ký kết hai hợp đồng nêu trên, nên việc điều tra những gì liên quan đến Cty này không thuộc thẩm quyền của UBTT, bị đơn phải khởi kiện Y trước cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Về các khoản tiền bồi thường khác do nguyên đơn nêu ra:
Về khoản tiền lãi phải trả trên số tiền hàng chưa thanh toán: Yêu cầu thanh toán tiền lãi trên số tiền 39.842,92 USD là số tiền bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn là hợp pháp. Cách thức tính tiền lãi mà nguyên đơn đưa ra căn cứ vào Điều 233 Luật Thương mại VN 1997,â các quy định của Quyết định số 39/1998/QĐ-NHNN ngày 17/1/1998 của NH Nhà nước VN được UBTT chấp nhận. Nếu chỉ căn cứ vào hai hợp đồng nói trên thì người mua – bị đơn bị coi là vi phạm Hợp đồng thứ nhất kể từ khi đã hết thời hạn 10 ngày sau khi nhận được vận đơn gốc,từ ngày 24/3/1999, ngày cuối cùng bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn. Đối với Hợp đồng thứ hai bị đơn bị coi là vi phạm hợp đồng kể từ ngày 7/4/1999. Tuy nhiên, trong văn thư nguyên đơn gửi cho bị đơn, sau khi nhắc nhở nghĩa vụ trả tiền đối với bị đơn, nguyên đơn đã gia hạn thời gian thanh toán cho bị đơn thêm 15 ngày, kể từ ngày 1 /12/1999, tức là gia hạn thanh toán đến hết ngày 15/12/1999. Việc làm này thể hiện thiện chí của nguyên đơn tự nguyện cho gia hạn thêm một thời gian hợp lý để bị đơn thực hiện nghĩa vụ của mình. Do đó, thời hạn chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán của bị đơn sẽ được tính chung cho cả hai hợp đồng đã được ký kết, tức là từ ngày 16/12/1999. Trên cơ sở đó, UBTT tính lại khoản tiền lãi mà bị đơn phải trả trên số tiền hàng chưa thanh toán là (39.842,92 USD x 11,7% x 432) : 360 = 5.593,94 USD đối với cả hai hợp đồng. Về số tiền 5.000 USD là các chi phí phải trả cho việc thuê tư vấn pháp lý: nguyên đơn không có các bằng chứng hợp lệ để chứng minh khoản thù lao cho luật sư, cũng như về khoản 400 USD chi cho phí liên lạc và 5000 USD cho phí dịch thuật mà nguyên đơn đòi. Do đó UBTT bác yêu cầu đòi các khoản chi phí này của nguyên đơn. Bị đơn phải trả phí trọng tài 1.246 USD.
Bình luận và lưu ý:
Trong tố tụng trọng tài, đối với bất kỳ khiếu kiện nào liên quan đến một khoản nợ, bên yêu cầu cần có đầy đủ chứng cứ chứng minh cho khoản nợ đó. Trong vụ việc này, bị đơn đã trình bày về phần hàng khuyến mãi với trị giá lớn nhưng lại không đưa ra được bất kỳ chứng cứ hợp pháp nào làm căn cứ cho yêu cầu của mình. Nguyên đơn cũng không chứng minh được các phí liên quan đến hoạt động tư vấn pháp lý, dịch thuật và liên lạc mà nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải bồi thường. Đối với những yêu cầu như vậy, chắc chắn UBTT sẽ không có cách lựa chọn nào khác là từ chối.
Trong một vụ việc, UBTT chỉ giải quyết và xem xét các vấn đề có liên quan trực tiếp đến vấn đề tranh chấp. Vì vậy, không nên đưa ra các yêu cầu đối với hoặc có liên quan đến một bên thứ ba không có quan hệ trực tiếp đến giao dịch bị tranh chấp. Có một số trường hợp UBTT buộc phải xem xét đến một giao dịch khác có liên quan trực tiếp đến giao dịch đang bị tranh chấp (Ví dụ: hợp đồng bán lại, hợp đồng mua bán sản phẩm được sản xuất từ các hàng hoá là đối tượng của giao dịch đang bị tranh chấp). Tuy nhiên, đối với vụ việc này, giao dịch thiết lập giữa bị đơn (và có thể cả Công ty X) với Công ty Y không được coi là có mối quan hệ hữu cơ với giao dịch bị tranh chấp nên UBTT từ chối không xem xét.
Nguồn: http://www.dddn.com.vn/Desktop.aspx/TinTuc/Diendan-Luatphap

TRANH CHẤP VỀ HỦY HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN DO KHÔNG XẾP HÀNG

Tóm tắt vụ việc:
Nguyên đơn ký kết với Bị đơn một hợp đồng chở 5.200 tấn gỗ tròn từ Rangoon, Burma đến Huangpu, Trung Quốc. Bị đơn cam kết trả khoán 140.000 USD cước vận chuyển cho ngân hàng do nguyên đơn chỉ định trong vòng ba ngày làm việc kể từ khi hoàn thành việc xếp hàng lên tàu và ký vào vận đơn. Tàu phải đến cảng bốc hàng và phải ở tình trạng sẵn sàng để xếp hàng vào khoảng thời gian giữa ngày 5/2 và ngày 15/2/1992.
Nguyên đơn đưa tàu đến Rangoon thứ sáu ngày 12/2/1992 và gửi Thông báo sẵn sàng bốc hàng vào hồi 17h10 cùng ngày. Như vậy theo các qui định về thời gian bốc hàng trong hợp đồng thì thời gian bốc hàng sẽ bắt đầu tính từ 13h00 ngày thứ bảy.

Nhưng nguyên đơn không hề nhận được tín hiệu gì về việc giao hàng từ phía bị đơn. Nguyên đơn đã liên tục liên hệ với bị đơn thông qua người môi giới thuê tàu để xác định xem hàng hoá đã sẵn sàng chưa và vì bị đơn không trả lời nên nguyên đơn đã phải xác minh điều này qua cảng Rangoon thông qua đại lý của mình. Sau khi xác minh nguyên đơn biết được rằng bị đơn không thể bốc số hàng ghi trong hợp đồng vận chuyển và bị đơn đang gặp khó khăn lớn trong việc đáp ứng các yêu cầu về giấy tờ thủ tục theo các qui chế về XK gỗ.
Trước sự im lặng của bị đơn, nguyên đơn đã đợi cho đến hết thời hạn bốc hàng và ngày 27/2 /1992 nguyên đơn đã gửi một telex cho bị đơn thông báo rằng nếu nguyên đơn không nhận được trả lời của bị đơn xác nhận sẽ bốc hàng lên tàu trong ngày hôm đó thì nguyên đơn sẽ coi là bị đơn không thể bốc hàng, từ chối hợp đồng giữa hai bên và do đó vi phạm hợp đồng và nguyên đơn sẽ điều tàu đi nơi khác. Bị đơn vẫn không trả lời và ngày hôm sau nguyên đơn gửi một telex khẳng định nguyên đơn coi hành vi của bị đơn là vi phạm hợp đồng và tuyên bố nguyên đơn có quyền tự do điều tàu đi nơi khác. Thực tế ngày 12/3/1992, nguyên đơn đã ký một hợp đồng chở phân urê từ Lhokseumawe, Indonesia đến TP Hồ Chí Minh.
Nguyên đơn đòi 72.354 USD tiền bồi thường gồm 140.000 USD cước khống trừ đi các chi phí phải chi khi hưởng khoản cước đó cùng với tiền bồi thường do giữ tàu quá hạn là 7.000 USD tại cảng bốc hàng Rangoon tính đến ngày chấm dứt hợp đồng.
Bị đơn phủ nhận việc mình đã vi phạm hợp đồng và lập luận rằng trên thực tế chính nguyên đơn mới là người phá vỡ hợp đồng bằng việc điều tàu đi nơi khác trong khi bị đơn chưa bao giờ tuyên bố sẽ không thực hiện hợp đồng. Bị đơn kiện lại đòi bồi thường thiệt hại bao gồm tiền cước thực tế đã phải chi trả để vận chuyển số hàng ghi trong hợp đồng đến miền nam Trung Quốc vào khoảng giữa các tháng 4 và tháng 10/1992.
Phán quyết của Trọng tài:
Uỷ ban Trọng tài (UBTT) đã so sánh vụ việc này với vụ việc gây xôn xao dư luận có tên “Jupiter” vào những năm 60 trong đó nhà khai thác dầu có tên “Jupiter” đã ký hợp đồng thuê rất nhiều tàu chở dầu nhưng lại không phát lệnh bốc hàng ngoại trừ đối với các tàu đậu bên ngoài các cảng dầu trong Vịnh Persic. Các chủ tàu đã phải chọn lựa hoặc đưa tàu đi nơi khác và chịu mọi rủi ro hoặc là chờ đợi không biết đến bao giờ. Cuối cùng người ta đã không bao giờ còn thấy Jupiter xuất hiện nữa và những chủ tàu đã phải chịu thiệt hại do sự cẩn trọng quá mức của mình.
UBTT cho rằng trên thực tế nguyên đơn không có quyền hiểu sự im lặng của bị đơn là sự từ chối thực hiện hợp đồng và do đó các thông báo do nguyên đơn gửi ngày 28-29/2 là không có hiệu lực. Tuy nhiên UBTT cũng cho rằng cho đến ngày 29/2, khi nguyên đơn coi hợp đồng vận chuyển là đã chấm dứt, bị đơn hoàn toàn không còn khả năng kiếm hàng hoá và bốc hàng lên tàu trước khi việc trì hoãn của bị đơn phá vỡ quan hệ hợp đồng vận chuyển.
Trên cơ sở các chứng cứ trình ra trước UBTT, bị đơn không thể chứng minh khả năng thực hiện hợp đồng, tức là bốc hàng lên tàu trước khi việc trì hoãn trở thành một vi phạm nghiêm trọng đối với hợp đồng, cụ thể đến tận tháng 10/1992 bị đơn vẫn còn tiếp tục bốc hàng lên các tàu và bị đơn đã không đưa ra được bằng chứng nào chứng minh lập luận rằng trước đó họ đã cố gắng kiếm tàu để bốc hàng. Hơn nữa, bị đơn cũng không chứng minh được rằng mình đã có đầy đủ các tài liệu và giấy phép XK theo Luật Burma tại thời điểm bốc hàng theo hợp đồng vận chuyển với nguyên đơn để có thể bốc hàng lên tàu. Do đó, UBTT chấp thuận yêu cầu của nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại và tiền phạt do giữ tàu quá lâu trước khi hợp đồng vận chuyển bị chấm dứt.
Bình luận và lưu ý:
Trong những trường hợp tương tự chủ tàu cần phải tuyên bố ràng buộc người thuê rằng mọi sự im lặng của người thuê có giá trị tương tự như là một sự xác nhận rằng người thuê đã không có hàng và đã vi phạm hợp đồng. Chỉ trong trường hợp đó chủ tàu mới có quyền điều tàu đi chở lô hàng khác và đòi thiệt hại thực tế phát sinh (chênh lệch giữa cước thực thu và cước lẽ ra phải thu).
(theo HOÀNG LÊ HẰNG – Báo Diễn đàn doanh nghiệp online)

TRANH CHẤP VỀ BẢO ĐẢM HỢP ĐỒNG VÔ ĐIỀU KIỆN

Tóm tắt vụ việc:
Bằng Hợp đồng mua bán ngày 12/7/1982, nguyên đơn cam kết cung ứng cho bị đơn một số tủ văn phòng và tủ đựng quần áo. Sau đó, Bị đơn sẽ cung ứng số hàng hoá này cho một Cty Arập Xê-út (khách hàng). Hợp đồng quy định tranh chấp phát sinh sẽ được giải quyết bằng trọng tài ICC tại Washington.
Theo hợp đồng, trong vòng 15 ngày kể từ ngày ký hợp đồng nguyên đơn phải cung ứng:
“Một bảo đảm thực hiện hợp đồng vô điều kiện và không hủy ngang có thể được [bị đơn] chấp nhận, do một Ngân hàng Mỹ phát hành và xác nhận cho [bị đơn] hưởng lợi với trị giá là 10% giá bán … như là một bảo đảm cho thoả thuận này” (sau đây gọi tắt là “L/C bảo đảm thực hiện”).

Một mẫu giấy bảo đảm được đính kèm với hợp đồng.
Theo hợp đồng, bị đơn phải thanh toán bằng:
“Một thư tín dụng không huỷ ngang, có thể chuyển nhượng và tuần hoàn với trị giá tăng 25% tổng giá bán, thanh toán trong vòng 67 ngày kể từ ngày giao các chứng từ xác nhận việc nhận hàng. Thư tín dụng phải được mở cho nguyên đơn hưởng lợi trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được chấp thuận của khách hàng” (sau đây gọi là “L/C thanh toán”).
Do một số khó khăn từ phía nguyên đơn nên cho đến ngày 20 /9/1982 L/C Bảo đảm thực hiện cho bị đơn hưởng lợi mới được mở và bảo đảm này có quy định rằng thư chỉ có hiệu lực khi bị đơn mở L/C thanh toán. Ngày 27/9/1982, bị đơn gửi telex cho nguyên đơn thông báo L/C bảo đảm thực hiện không thể chấp nhận được vì không đáp ứng quy định “vô điều kiện”. Telex này nêu rằng nguyên đơn đã vi phạm hợp đồng và rằng “nếu nguyên đơn cung ứng một bảo đảm có thể chấp nhận được thì hai bên sẽ bàn bạc về khả năng tiếp tục thực hiện hợp đồng”. Nguyên đơn trả lời bằng văn thư ngày 29/9/ 1982 rằng “vì điều kiện duy nhất của chúng tôi hoàn toàn thuộc quyết định của quý Cty, tức quyết định mở L/C thanh toán, nên thực tế L/C bảo đảm thực hiện này là vô điều kiện đối với quý Cty”. Bị đơn trả lời bằng telex ngày 4/10/1982 rằng điều kiện mà nguyên đơn nêu ra khiến cho L/C bảo đảm này trở thành có điều kiện. bị đơn kết luận rằng “mặc dù chúng tôi đã cho quý Cty hơn 60 ngày để cấp một bảo đảm có thể chấp nhận được nhưng quý Cty đã không làm được việc này. Trong trường hợp này chúng tôi không còn lựa chọn nào khác là huỷ hợp đồng với quý Cty do lỗi của quý Cty. Chúng tôi sẽ mua hàng từ một bên thứ ba.”
Nguyên đơn đã khởi kiện ra Trọng tài ngày 22/11/1982 khẳng định rằng bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, thể hiện qua việc từ chối mở L/C thanh toán cho nguyên đơn hưởng lợi và không thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng trong khi chờ đợi kết quả trọng tài, đồng thời đòi bồi thường các thiệt hại phát sinh từ các vi phạm này.
Trọng tài phải giải quyết những vấn đề sau đây: (1) Tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài hay không, (2) Bị đơn có vi phạm hợp đồng không khi đơn phương chấm dứt hợp đồng, và (3) Nếu có thì nguyên đơn có thiệt hại gì. Trọng tài quyết định rằng tranh chấp có thể được giải quyết bằng trọng tài và việc bị đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng không phải là một vi phạm hợp đồng, do đó nguyên đơn không được bồi thường cho các thiệt hại là hệ quả của việc chấm dứt này.
Phán quyết của Trọng tài:
1. Về khả năng có thể giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài:
Điều khoản trọng tài trong hợp đồng quy định áp dụng cho “tất cả các tranh chấp phát sinh theo hay có liên quan đến, hoặc về bất kỳ vi phạm nào đối với hợp đồng này…”. Đây chính là một tranh chấp như vậy.
Bị đơn lập luận rằng điều khoản này không thể được áp dụng bởi hợp đồng quy định rằng “Thoả thuận này có hiệu lực phụ thuộc vào văn bản chấp thuận của khách hàng”. Thực tế đã không có một chấp thuận như vậy, và do đó điều khoản trọng tài chưa từng bao giờ có hiệu lực.
Uỷ ban Trọng tài cho rằng lập luận này không thuyết phục bởi cũng giống như một số quy định khác trong hợp đồng (ví dụ, quiyđịnh nguyên đơn phải hợp tác hỗ trợ với bị đơn trong việc đạt được chấp thuận từ phía khách hàng, hay nguyên đơn phải thông báo chi tiết về giảm giá hàng trong vòng 30 ngày kể từ khi ký hợp đồng, và nghĩa vụ mở L/C bảo đảm thực hiện của nguyên đơn), điều khoản trọng tài được ký kết với ý định là sẽ có hiệu lực từ thời điểm hợp đồng được ký kết và trước khi có văn bản chấp thuận của khách hàng, dù nhiều quy định khác trong hợp đồng chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm có văn bản chấp thuận.
Không hề có cơ sở nào để kết luận rằng các bên có ý định đưa ra giải quyết tại Toà án các tranh chấp phát sinh trước khi có chấp thuận của khách hàng và chỉ đưa ra Trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh sau thời điểm đó. Thực tế, bị đơn đã đúng khi lập luận rằng các nghĩa vụ hợp đồng của các bên chưa bao giờ có hiệu lực, nhưng bị đơn cũng không thể bác bỏ vụ việc này bởi nếu thế nghĩa vụ mở L/C bảo đảm thực hiện của nguyên đơn cũng không thể phát sinh và như vậy bị đơn chẳng có căn cứ nào để chấm dứt hợp đồng.
2. Bảo đảm thực hiện vô điều kiện (unconditional performance guarantee):
Uỷ ban Trọng tài cho rằng nguyên đơn đã không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, tức không mở L/C bảo đảm thực hiện vô điều kiện, không huỷ ngang và có thể được bị đơn chấp nhận. Điều này được lý giải như sau:
Thứ nhất, thuật ngữ “vô điều kiện” được định nghĩa một cách thông thường là “không bị hạn chế hay ảnh hưởng bởi bất kỳ điều kiện nào” (Từ điển Black’s Law tr. 1367 – xuất bản lần thứ 5, năm 1979). Theo định nghĩa này, L/C bảo đảm thực hiện của nguyên đơn không thể được coi là “vô điều kiện”, vì nó bị hạn chế bởi điều kiện là bảo đảm sẽ không có hiệu lực cho đến khi bị đơn mở L/C thanh toán.
Cách hiểu của nguyên đơn cũng có thể được chấp nhận nếu nguyên đơn dẫn được ra các chứng cứ có sức thuyết phục về thông lệ thương mại quốc tế hoặc về ý định thực của các bên. Nhưng nguyên đơn đã không đưa ra được chứng cứ nào như vậy.
Trong khi các chứng cứ hiện có cho thấy nguyên đơn tin rằng điều khoản mà mình đưa vào thư bảo đảm là được phép, Uỷ ban Trọng tài lại cho rằng thực tế hai bên chưa hề có thoả thuận nào về việc này. Khả năng về điều khoản này đã được các đại diện của nguyên đơn và bị đơn bàn bạc trước khi ký kết hợp đồng nhưng chưa đạt được một sự thống nhất nào, và, ngay cả khi được coi như là đã được các bên nhất trí, khả năng này cũng bị vô hiệu hoá bởi điều khoản thống nhất cuối cùng (điều khoản về “vô điều kiện”) được đưa vào hợp đồng ký sau đó. Hợp đồng, có đính kèm một bản thư bảo đảm thực hiện, không ủng hộ lập luận của nguyên đơn.
Sau khi ký kết hợp đồng, nguyên đơn và bị đơn cũng đã có gặp gỡ để thảo luận về việc sửa đổi hợp đồng nhưng không đi đến một thoả thuận nào. Vì thế không hề có một sửa đổi nào đối với hợp đồng cho phép một bảo đảm có điều kiện.
Từ các lập luận nêu trên, Uỷ ban Trọng tài đồng ý với lập luận của bị đơn rằng nguyên đơn đã thực hiện không đúng hợp đồng và thoả thuận giữa họ với nhau chưa hề được sửa đổi.
Thứ hai, hợp đồng nêu rõ ràng rằng nguyên đơn phải mở một thư bảo đảm thực hiện vô điều kiện “có thể được bị đơn chấp nhận”. Khi L/C bảo đảm thực hiện được phát hành, bị đơn đã thông báo cho nguyên đơn rằng L/C bảo đảm này không thể chấp nhận được. Quan điểm này của bị đơn không phải là không có căn cứ. bị đơn đã cho nguyên đơn cơ hội để sửa lại khiếm khuyết này và lập một thư bảo đảm khác có thể chấp nhận được nhưng nguyên đơn đã không làm được việc này. Do đó có thể kết luận rằng nguyên đơn đã không cung cấp được một thư bảo đảm thực hiện đáp ứng được yêu cầu của hợp đồng.
3. Về vi phạm nghiêm trọng hợp đồng và việc tiếp tục thực hiện hợp đồng:
Uỷ ban Trọng tài cho rằng với vi phạm này của nguyên đơn, bị đơn có quyền chấm dứt hợp đồng. Nguyên đơn cho rằng việc chấm dứt này là không được phép, bởi (a) vi phạm này không nghiêm trọng, và (b) điều khoản trọng tài quy định bị đơn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng dù đang có tranh chấp. Uỷ ban Trọng tài bác lập luận này của nguyên đơn vì những lý do sau đây:
Một là, Uỷ ban Trọng tài cho rằng đây là một vi phạm nghiêm trọng đối với hợp đồng trên cơ sở chứng cứ do bị đơn trình liên quan đến tầm quan trọng của việc có một thư bảo đảm thực hiện có giá trị, Điều 241(a) Luật Hợp đồng năm 1981.
Hai là, điều khoản trọng tài quy định giải quyết bằng trọng tài “tất cả các tranh chấp phát sinh theo hay có liên quan đến, hoặc về bất kỳ vi phạm nào đối với hợp đồng này…” nhưng chỉ quy định nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện hợp đồng khi tố tụng trọng tài đang được tiến hành trong trường hợp các tranh chấp “phát sinh theo” hợp đồng. Vì đây là tranh chấp liên quan đến vi phạm hợp đồng, một dạng tranh chấp mà khi được loại trừ khỏi yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng nên bị đơn không có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng. Vì nguyên đơn hoàn toàn không có ý định cung cấp một thư bảo đảm thực hiện mà bị đơn có thể chấp nhận được, và với tính chất nghiêm trọng của vi phạm nên bị đơn hoàn toàn có lý khi tìm một người cung cấp khác thay thế để bị đơn có thể thực hiện được các nghĩa vụ của bị đơn đối với các khách hàng của mình.
(Theo Nguyễn Thu Trang – Báo Diễn đàn doanh nghiệp online)

Thứ Ba, 28 tháng 12, 2010

Thủ tục ly hôn

Theo quy định của Luật hôn nhân gia đình và Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 về thủ tục và Tòa án thụ lý giải quyết ly hôn như sau:
1. Thẩm quyền giải quyết ly hôn:
Thẩm quyền giải quyết ly hôn được quy định theo các trường hợp sau:
Trường hợp cả anh/chị thuận tình ly hôn (không có yếu tố nước ngoài), (căn cứ điểm h khoản 2 Điều 35 BLTTDS), thì anh/chị có quyền thỏa thuận, lựa chọn nộp đơn kiện tại cơ quan có thẩm quyền giải quyết: TAND quận (huyện) nơi cả anh/chị có hộ khẩu thường trú, tạm trú; nếu anh/chị có hộ khẩu thường trú, tạm trú ở 2 nơi khác nhau thì anh/chị sẽ thỏa thuận nộp đơn kiện tại TAND quận (huyện) nơi của ông hoặc bà có hộ khẩu thường trú, tạm trú.
Đối với hôn nhân có yếu tố nước ngoài thẩm quyền giải quyết do TAND cấp tỉnh,Thành phố trực thuộc trung ương giải quyết (Điều 34 BLTTDS) nơi anh/chị có hộ khẩu thường trú, tạm trú.
Trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên anh/chị, thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết là:
Đối với hôn nhân không có yếu tố nước ngoài: (Điều 33 BLTTDS) cơ quan có thẩm quyền giải quyết TAND quận (huyện) nơi cả anh/chị có hộ khẩu thường trú, tạm trú; nếu anh/chị có hộ khẩu thường trú ở 2 nơi khác nhau thì đơn kiện sẽ nộp tại TAND quận (huyện) nơi bị đơn có hộ khẩu thường trú, tạm trú (điểm a khoản 1 điều 35 BLTTDS giải quyết ), hoặc nếu thỏa thuận được thì đơn kiện của anh/chị có thể nộp tại TAND quận (huyện) nơi nguyên đơn có hộ khẩu thường trú, tạm trú (điểm b khoản 1 điều 35 BLTTDS)
Đối với hôn nhân có yếu tố nước ngoài, thẩm quyền giải quyết do TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết (Điều 34 BLTTDS) nơi anh/chị có hộ khẩu thường trú, tạm trú
2.Thời hạn giải quyết:
Căn cứ (Điều 171 BLTTDS, điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTDS) thời hạn chuẩn bị xét xử tối đa là 4 tháng kể từ ngày thụ lý, nếu vụ án phức tạp thì có thể gia hạn thêm 2 tháng nữa (nghĩa là 6 tháng) (quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTDS).
3.Thủ tục ly hôn:
Căn cứ Điều 164,165 BLTTDS . Khi anh/chị làm thủ tục ly hôn thì các giấy tờ cần thiết để giải quyết về lyly hôn ; Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn; Nếu có con chung (giấy khai sinh của con); Giấy tờ chứng minh tài sản riêng/chung của anh/chị (nếu có); Giấy tờ về nhân thân của anh/chị như giấy chứng minh nhân dân, hộ khẩu thường trú.

Luật sư Phan Khắc Nghiêm
0988 505 572 - 0913 579 801
Email: phannghiemlawyer@gmail.com




Lựa chọn hình thức doanh nghiệp để thành lập

Việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp trước khi bắt đầu công việc kinh doanh là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Về cơ bản, những sự khác biệt tạo ra bởi loại hình doanh nghiệp là: (i) uy tín doanh nghiệp do thói quen tiêu dùng; (ii) khả năng huy động vốn; (iii) rủi ro đầu tư; (iv) tính phức tạp của thủ tục và các chi phí thành lập doanh nghiệp; (v) tổ chức quản lý doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được thành lập hoặc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Luật về tổ chức và thành lập doanh nghiệp ở Việt nam hiện có Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước, luật Hợp tác xã, luật Các tổ chức tín dụng... Theo đó, Doanh nghiệp được tổ chức theo nhiều loại hình khác nhau. Mỗi loại hình doanh nghiệp có đặc trưng và từ đó tạo nên những hạn chế hay lợi thế của doanh nghiệp.
Vì vậy việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp trước khi bắt đầu công việc kinh doanh là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Về cơ bản, những sự khác biệt tạo ra bởi loại hình doanh nghiệp là: (i) uy tín doanh nghiệp do thói quen tiêu dùng; (ii) khả năng huy động vốn; (iii) rủi ro đầu tư; (iv) tính phức tạp của thủ tục và các chi phí thành lập doanh nghiệp; (v) tổ chức quản lý doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp tư nhân là một cá nhân. Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp, thì chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Do là chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp nên doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn chủ động trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng và giúp cho doanh nghiệp ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật như các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, do không có tư cách pháp nhân và tính chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản nên mức độ rủi ro của chủ doanh tư nhân cao, chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp và của chủ doanh nghiệp chứ không giới hạn số vốn mà chủ doanh nghiệp đã đầu tư vào doanh nghiệp.
Công ty hợp danh

Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: (i) Phải có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn; (i) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; (i) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp đăng ký kinh doanh và không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn.
Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty; tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh công ty; cùng liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ được quy định tại Điều lệ công ty; không được tham gia quản lý công ty và hoạt động kinh doanh nhân danh công ty. Các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý công ty.
Ưu điểm của công ty hợp danh là kết hợp được uy tín cá nhân của nhiều người. Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh mà công ty hợp danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn hàng, đối tác kinh doanh. Việc điều hành quản lý công ty không quá phức tạp do số lượng các thành viên ít và là những người có uy tín, tuyệt đối tin tưởng nhau. Hạn chế của công ty hợp danh là do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên mức độ rủi ro của các thành viên hợp danh là rất cao.
Loại hình công ty hợp danh mới chỉ được quy định trong Luật doanh nghiệp năm 1999 nên trên thực tế loại hình doanh nghiệp này chưa phổ biến.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên

Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên là doanh nghiệp trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Thành viên của công ty có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên tối thiểu là hai và tối đa không vượt quá năm mươi. Công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên phải có Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc. Công ty trách nhiệm hữu hạn có trên mười một thành viên phải có Ban kiểm soát.
Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở Việt nam hiện nay. Hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn đem lại cho nhà đầu tư nhiều lợi thế như: (i) do có tư cách pháp nhân nên các thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty nên ít gây rủi ro cho người góp vốn; (ii) số lượng thành viên công ty không nhiều và các thành viên thường là người quen biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều hành công ty không quá phức tạp; (iii) Chế độ chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư dễ dàng kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của người lạ vào công ty. Tuy nhiên, hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn cũng có những hạn chế nhất định như: (i) do chế độ trách nhiệm hữu hạn nên uy tín của công ty trước đối tác, bạn hàng cũng phần nào bị ảnh hưởng; (ii) công ty trách nhiệm hữu hạn chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật hơn là doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh; (iii) việc huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn bị hạn chế do không có quyền phát hành cổ phiếu.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một hình thức đặc biệt của công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát hành cổ phiếu và không được giảm vốn điều lệ.
Chủ sở hữu công ty không được trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn đã góp vào công ty. Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Chủ sở hữu công ty không được rút lợi nhuận của công ty khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả.
Tùy thuộc quy mô và ngành, nghề kinh doanh, cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên bao gồm: Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc.
Nhìn chung, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có đầy đủ các đặc thù của công ty trách nhiệm hữu hạn có ít nhất hai thành viên trở lên. Điểm khác biệt duy nhất giữa công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn có ít nhất hai thành viên trở lên là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chỉ có một thành viên duy nhất và thành viên này có thể là tổ chức hoặc cá nhân.
Lợi thế của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là chủ sở hữu công ty có toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của công ty. 
Công ty cổ phần

Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: (i)Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; (ii)Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; (iii)Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết và cổ phần của cổ đông sáng lập; (iv)Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông phải có Ban kiểm soát.
Lợi thế của công ty cổ phần là: (i) chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông không cao; (ii) khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các lịch vực, ngành nghề; (ii) cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty; (iv) khả năng huy động vốn của công ty cổ phầnrất cao thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng có của công ty cổ phần; (v) việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.
Bên cạnh những lợi thế nêu trên, loại hình công ty cổ phần cũng có những hạn chế nhất định như: (i) việc quản lý và điều hành công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ động đối kháng nhau về lợi ích; (ii) Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán.
Công ty nhà nước

Công ty nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp Nhà Nước. Công ty nhà nước được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước độc lập, tổng công ty nhà nước.
Công ty nhà nước được thành lập chủ yếu ở những ngành, lĩnh vực cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội; ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế, đòi hỏi đầu tư lớn; ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh cao; hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
Người có thẩm quyền ra quyết định thành lập mới công ty nhà nước là Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Riêng đối với việc quyết định thành lập mới công ty nhà nước đặc biệt quan trọng, chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt, làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.
Công ty nhà nước có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty mới được tiếp nhận vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn để đầu tư, xây dựng doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh; công ty được kinh doanh những ngành, nghề có điều kiện khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh ngành, nghề có điều kiện hoặc có đủ điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Công ty nhà nước được tổ chức quản lý theo mô hình có hoặc không có Hội đồng quản trị. Các tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập sau đây có Hội đồng quản trị: (i) Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập; (ii) Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước; (iii) Công ty nhà nước độc lập có quy mô vốn lớn giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác.
Hợp tác xã

Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật hợp tác xã để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật.
Hoạt động kinh doanh dưới hình thức hợp tác xã có nhiều lợi thế như: (i) có thể thu hút được đông đảo người lao động tham gia; (ii) việc quản lý hợp tác xã thực hiện trên nguyên tắc dân chủ và bình đẳng nên mọi xã viên đều bình đẳng trong việc tham gia quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động của hợp tác xã không phân biệt nhiều vốn hay ít vốn; (iii) các xã viên tham gia hợp tác xã chỉ chịu trách nhiệm trước các hoạt động của hợp tác xã trong phạm vi vốn góp vào hợp tác xã. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh theo hình thức hợp tác xã cũng có những hạn chế nhất định, như không khuyến khích được người nhiều vốn, nhiều kinh nghiệm quản lý, kinh doanh tham gia hợp tác xã do nguyên tắc chia lợi nhuận kết hợp lợi ích của xã viên với sự phát triển của hợp tác xã; việc quản lý hợp tác xã phức tạp do số lượng xã viên đông; Sở hữu manh mún của các xã viên đối tài sản của mình làm hạn chế các quyết định của Hợp tác xã.

Doanh nghiệp liên doanh

Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn cam kết góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp. Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp Giấy phép đầu tư.
Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án quy có quy mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp hơn, nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp thuận. Tỷ lệ góp vốn của bên hoặc các bên liên doanh nước ngoài do các bên liên doanh thoả thuận, nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh. Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh, công nghệ, thị trường, hiệu quả kinh doanh và các lợi ích kinh tế - xã hội khác của dự án, Cơ quan cấp giấy phép đầu tư có thể xem xét cho phép bên liên doanh nước ngoài có tỷ lệ góp vốn thấp hơn, nhưng không dưới 20% vốn pháp định.
Đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp liên doanh là có sự phối hợp cùng góp vốn đầu tư sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư Việt nam. Tỷ lệ góp vốn của mỗi bên sẽ quyết định tới mức độ tham gia quản lý doanh nghiệp, tỷ lệ lợi nhuận được hưởng cũng như rủi ro mỗi bên tham gia liên doanh phải gánh chịu.
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức doanh nghiệp thực sự đem lại nhiều lợi thế cho cả nhà đầu tư việt nam và nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư việt nam, khi tham gia doanh nghiệp liên doanh, ngoài việc tượng phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp, nhà đầu tư việt nam còn có điều kiện tiếp cận với công nghệ hiện đại, phong cách và trình độ quản lý kinh tế tiên tiến. đối với bên nước ngoài, lợi thế được hưởng là được đảm bảo khả năng thành công cao hơn do môi trường kinh doanh, pháp lý hoàn toàn xa lạ nêu không có bên việt nam thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, hình thức doanh nghiệp liên doanh cũng có sự bất lợi là có sự ràng buộc chặt chẽ trong một pháp nhân chung giữa các bên hoàn toàn khác nhau không chỉ về ngôn ngữ mà còn về truyền thống, phong tục, tập quán, phong cách kinh doanh, do vậy có thể phát sinh những mâu thuẫn không dễ gì giải quyết.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài

Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước đầu tư nước ngoài do Nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư.
Vốn pháp định của Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bán khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án có quy mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp hơn nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp nhận.

Ngoài các loại hình doanh nghiệp kể trên, còn một số loại hình doanh nghiệp đặc thù khác được thành lập và tổ chức theo luật chuyên ngành như văn phòng luật sư, công ty luật, ngân hàng, tổ chức tín dụng…
Để có được những quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp với quy mô kinh doanh, ngành nghề kinh doanh xin vui lòng liên hệ:
Luật sư Phan Khắc Nghiêm
0988 505 572 - 0913 579 801
Email: phannghiemlawyer@gmail.com
Skype & YM: phannghiemlawyer




Quy định về Thành lập Công ty Kinh doanh Bất Động Sản

Các Quy định pháp lý về Thành lập Công ty Kinh doanh Bất Động Sản.

QUY ĐỊNH VỀ THÀNH LẬP CÔNG TY KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN

1.CĂN CỨ PHÁP LUẬT

- Luật kinh doanh bất động sản 2006.
- Nghị định 153/2007/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bất động sản.
- Thông tư  số 13/2008/TT-BXD của Bộ xây dựng hướng dẫn nghị định 153/2007/NĐ-CP.

2.   ĐIỀU KIỆN:

2.1.  Vốn pháp định:
Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải có vốn pháp định là 6 (sáu) tỷ đồng Việt Nam.
Đối với doanh nghiệp thành lập mới thì hồ sơ xác nhận vốn pháp định gồm có:
Biên bản góp vốn của các cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần hoặc của các thành viên sáng lập đối với công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) có từ hai thành viên trở lên; quyết định giao vốn của chủ sở hữu đối với công ty TNHH một thành viên mà chủ sở hữu là một tổ chức; bản đăng ký vốn đầu tư của chủ sở hữu doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân và đối với công ty TNHH một thành viên mà chủ sở hữu là cá nhân;
Trường hợp số vốn được góp bằng tiền thì phải có văn bản xác nhận của Ngân hàng Thương mại được phép hoạt động tại Việt Nam về số tiền ký quỹ của các thành viên sáng lập. Số tiền ký quỹ tối thiểu phải bằng số vốn góp bằng tiền của các thành viên sáng lập và chỉ được giải ngân sau khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
Trường hợp số vốn góp bằng tài sản thì phải có chứng thư của tổ chức có chức năng định giá đang hoạt động tại Việt Nam về kết quả định giá tài sản được đưa vào góp vốn. Chứng thư phải còn hiệu lực tính đến ngày nộp hồ sơ tại cơ quan đăng ký kinh doanh.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải duy trì mức vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định (kể cả doanh nghiệp đó được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh bất động sản trước ngày Nghị định 153/2007/NĐ-CP có hiệu lực).
Tổ chức, cá nhân trực tiếp xác nhận vốn pháp định cùng liên đới chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của số vốn tại thời điểm xác nhận.
2.2.  Phạm vi hoạt động kinh doanh bất động sản của tổ chức, cá nhân trong nước
Tổ chức, cá nhân trong nước được kinh doanh bất động sản trong phạm vi sau đây:
a) Đầu tư xây dựng nhà để bán, cho thuê, cho thuê mua;
c) Thuê nhà, công trình xây dựng để cho thuê lại;
d) Đầu tư cải tạo đất và đầu tư các công trình hạ tầng trên đất thuê để cho thuê đất đó có hạ tầng;
đ) Nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đầu tư công trình hạ tầng để chuyển nhượng, cho thuê; thuê quyền sử dụng đất đó có hạ tầng để cho thuê lại.
Tổ chức, cá nhân trong nước được kinh doanh dịch vụ bất động sản trong phạm vi sau đây:
a) Dịch vụ môi giới bất động sản;
b) Dịch vụ định giá bất động sản;
c) Dịch vụ sàn giao dịch bất động sản;
d) Dịch vụ tư vấn bất động sản;
đ) Dịch vụ đấu giá bất động sản;
e) Dịch vụ quảng cáo bất động sản;
g) Dịch vụ quản lý bất động sản.
2.3.  Điều kiện về chứng chỉ hành nghề
Tổ chức, cá nhân:
Khi kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải có ít nhất một người có chứng chỉ môi giới bất động sản;
 Khi kinh doanh dịch vụ định giá bất động sản phải có ít nhất hai người có chứng chỉ định giá bất động sản;
Khi kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản phải có ít nhất hai người có chứng chỉ môi giới bất động sản, nếu có dịch vụ định giá bất động sản thì phải có ít nhất hai người có chứng chỉ định giá bất động sản.
2.4.  Điều kiện về tính công khai minh bạch:
Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải thực hiện việc bán, chuyển nhượng, cho thuê, thuê mua bất động sản thông qua sàn giao dịch bất động sản (trừ các dự án nhà ở xã hội theo Luật Nhà ở) theo quy định sau:
Bất động sản phải đủ điều kiện theo quy định của pháp luật mới được đem bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua;
Chủ đầu tư có thể tự thành lập sàn giao dịch hoặc lựa chọn sàn giao dịch bất động sản do đơn vị khác thành lập để giới thiệu bất động sản và thực hiện các giao dịch bất động sản;
Sàn giao dịch bất động sản phải công khai các thông tin (theo quy định tại Điểm 2 phần IV của Thông tư này) về bất động sản cần bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua tại sàn giao dịch để khách hàng biết và đăng ký giao dịch. Thời gian thực hiện công khai tối thiểu 07 (bảy) ngày tại Sàn giao dịch. Trong thời hạn nếu trên, thông tin về tên dự án, loại, số lượng bất động sản, địa điểm và thời gian tổ chức việc bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản phải được đăng tải tối thiểu 03 (ba) số liên tiếp trên một tờ báo phát hành tại địa phương, tối thiểu 01 (một) lần trên đài truyền hình địa phương nơi có dự án và trên trang web (nếu có) của Sàn giao dịch bất động sản. Chi phí đăng tải thông tin do chủ đầu tư (hoặc chủ sở hữu) chi trả;
Khi hết thời hạn công khai theo quy định tại Điểm 3 Phần này, chủ đầu tư (hoặc sàn giao dịch bất động sản được uỷ quyền) được tổ chức việc bán, chuyển nhượng, cho thuê, thuê mua bất động sản đó cụng khai. Trường hợp cùng một loại bất động sản có từ 2 (hai) khách hàng đăng ký trở lên hoặc số khách hàng đăng ký nhiều hơn số lượng bất động sản thì chủ đầu tư (hoặc sàn giao dịch bất động sản được uỷ quyền) phải thực hiện việc lựa chọn khách hàng theo phương thức bốc thăm hoặc đấu giá. Việc đặt cọc trước khi triển khai bốc thăm hoặc đấu giá bất động sản do các bên thoả thuận theo quy định của pháp luật;
Việc đấu giá bất động sản tại sàn giao dịch thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản;
Sàn giao dịch bất động sản có trách nhiệm xác nhận bất động sản của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản được giao dịch qua sàn (theo mẫu tại phụ lục 4) để xác nhận bất động sản đó được giao dịch theo đúng quy định của pháp luật;
Đối với bất động sản của tổ chức, cá nhân không kinh doanh bất động sản mà giao dịch qua Sàn giao dịch bất động sản thì không bắt buộc phải công khai thông tin theo quy định tại Điểm 3 của Phần này.
Cần biết thêm thông tin, xin vui lòng liên hệ:
Luật sư Phan Khắc Nghiêm
0988 505 572 - 0913 579 801
Email: phannghiemlawyer@gmail.com




Thủ tục đầu tư ra nước ngoài

Trong tình hình VN đối phó suy giảm kinh tế, các doanh nghiệp VN được chính phủ khuyến khích đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, thủ tục đầu tư ra nước ngoài được quy định như dưới đây.

1. Cơ sở pháp lý:

- Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
- Luật Đầu tư năm 2005.
- Luật của nước tiếp nhận đầu tư
- Nghị định 108/2006/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Đầu Tư.

2. Điều kiện đầu tư ra nước ngoài:

Theo quy định tại điều 76 Luật Đầu tư Để được đầu tư ra nước ngoài theo hình thức đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư phải có các điều kiện sau đây:
- Có dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam.
- Tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng vốn nhà nước đối với các trường hợp sử dụng vốn nhà nước để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư.

3. Cơ quan thụ lý:

Nhà đầu tư làm thủ tục đầu tư tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cụ thể tại Cục Đầu tư Nước ngoài- Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

4.Quy trình cấp giấy chứng nhận đầu tư:

4.1. Đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng Việt Nam

a) Hồ sơ dự án đầu tư gồm:

- Dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Văn bản đăng ký dự án đầu tư.
- Bản sao có công chứng: Giấy chứng nhận đầu tư; hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; hoặc Giấy chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu; hoặc Giấy phép đầu tư.
- Hợp đồng hoặc văn bản thỏa thuận với đối tác về việc góp vốn hoặc mua cổ phần hoặc hợp tác đầu tư đối với dự án đầu tư có đối tác khác cùng tham gia đầu tư.
- Văn bản đồng ý của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng cổ đông về việc đầu tư trực tiếp ra nước.

b) Thủ tục đăng ký và thời gian cấp Giấy chứng nhận đầu tư:

- Hồ sơ: 03 bộ (có 01 bộ hồ sơ gốc)
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có văn bản đề nghị nhà đầu tư giải trình về nội dung cần phải được làm rõ (nếu có).
- Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư, đồng thời sao gửi các Bộ, ngành và địa phương liên quan.
- Trường hợp hồ sơ dự án đầu tư không được chấp thuận, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có văn bản thông báo và nêu rõ lý do gửi nhà đầu tư.

4.2. Đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng Việt Nam trở lên

a) Hồ sơ dự án đầu tư gồm:

- Dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Văn bản đề nghị thẩm tra dự án đầu tư.
- Bản sao có công chứng: Giấy chứng nhận đầu tư; hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; hoặc Giấy chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu; hoặc Giấy phép đầu tư.
- Văn bản giải trình về dự án đầu tư gồm các nội dung sau: mục tiêu đầu tư; địa điểm đầu tư; quy mô vốn đầu tư; nguồn vốn đầu tư; việc sử dụng lao động Việt Nam (nếu có); việc sử dụng nguyên liệu từ Việt Nam (nếu có); tiến độ thực hiện dự án đầu tư.
- Hợp đồng hoặc bản thỏa thuận với đối tác về việc góp vốn hoặc mua cổ phần hoặc cùng hợp tác đầu tư đối với trường hợp có đối tác khác cùng tham gia đầu tư.
- Văn bản đồng ý của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng cổ đông về việc đầu tư ra nước ngoài.

b) Thời gian thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư:

- Đối với các dự án đầu tư phải được sự chấp thuận đầu tư của Thủ tướng Chính phủ:
Trong thời hạn 25 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ ý kiến thẩm định bằng văn bản kèm theo hồ sơ dự án đầu tư và ý kiến bằng văn bản của các cơ quan có liên quan để Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được ý kiến chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư.

- Đối với các dự án đầu tư không quy định phải được sự chấp thuận đầu tư của Thủ tướng Chính phủ:
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư.

Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về thủ tục pháp lý để đầu tư ra nước ngoài hoặc về các vấn đề khác, quý khách vui lòng liên hệ:

Ls phan Khắc Nghiêm
0988 505 572 - 0913 579 801
Email: phannghiemlawyer@gmail.com


Hàng hóa nhập khẩu theo hình thức phi mậu dịch không được phép thanh toán qua ngân hàng

Hàng hóa nhập khẩu theo hình thức phi mậu dịch không được phép thanh toán qua ngân hàng, cụ thể như sau:
Căn cứ điểm I mục 3 Thông tư số 112/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan quy định : Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu không nhằm mục đích thương mại (dưới đây gọi tắt là hàng phi mậu dịch) gồm:

1. Quà biếu, tặng của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài gửi cho tổ chức, cá nhân ở Việt Nam; của tổ chức, cá nhân ở Việt Nam gửi cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài.

2. Hàng hoá của cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế tại Việt Nam và những người làm việc tại các cơ quan, tổ chức trên;

3. Hàng viện trợ nhân đạo;

4. Hàng hoá tạm nhập khẩu của những cá nhân được Nhà nước Việt Nam cho miễn thuế;

5. Hàng mẫu không thanh toán;

6. Dụng cụ nghề nghiệp, phương tiện làm việc của người xuất nhập cảnh;

7. Tài sản di chuyển của tổ chức, cá nhân;

8. Hành lý cá nhân của người nhập cảnh gửi theo vận tải đơn, hàng hoá mang theo người của người nhập cảnh vượt tiêu chuẩn miễn thuế;

9. Hàng phi mậu khác.

Chính vì thế, thông thường hàng hóa nhập khẩu theo hình thức phi mậu dịch thì không được phép thanh toán qua ngân hàng. Trừ trường hợp quy định tại thông tư 33/2003/TT-BTC, Mục I, điều 5, khoản đ: Trường hợp hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh có yêu cầu gấp rút về mặt thời gian (phục vụ sản xuất), số lượng nhỏ nếu chủ hàng đề nghị được nhập khẩu theo chế độ phi mậu dịch thì Chi cục Hải quan Bưu cục Ngoại dịch hoặc Chi cục Hải quan sân bay quốc tế giải quyết theo đề nghị của chủ hàng ( làm thủ tục theo loại hình hàng phi mậu dịch nhập khẩu, thu đủ thuế (nếu có) trước khi thông quan, không hoàn thuế)

Ls Phan Khắc Nghiêm
0988 505 572 - 0913 579 801
Email: phannghiemlawyer@gmail.com