1. Một cơ sở lý thuyết lạ lẫm
Bảo đảm nghĩa vụ là một quan hệ nghĩa vụ.
Trong suy nghĩ của người làm luật Việt Nam, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
là mối quan hệ pháp lý được thiết lập giữa một bên là người cam kết bảo
đảm và bên kia là người thụ hưởng biện pháp bảo đảm. Đó là một quan hệ
nghĩa vụ đích thực, nghĩa là, ở góc nhìn của luật latinh, có tác dụng
tạo ra một trái quyền mà người thụ hưởng biện pháp bảo đảm được phép
thực hiện chống lại người cam kết bảo đảm.
Tính
chất đối nhân của quan hệ bảo đảm nghĩa vụ được ghi nhận cả trong
trường hợp biện pháp bảo đảm được xác lập trên các tài sản đặc định, gọi
là thế chấp hoặc cầm cố. Chủ nợ có bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp được
thừa nhận có quyền ưu tiên được thanh toán nợ bằng giá bán tài sản cầm
cố, thế chấp; tuy nhiên, tính chất ưu tiên của của quyền không được làm
rõ trong mối quan hệ với người cầm cố, thế chấp, người mà theo giả thiết
là chủ sở hữu tài sản. Riêng trong trường hợp bảo đảm bằng thế chấp tài
sản, thì để thực hiện quyền ưu tiên đó, chủ nợ cần có sự hợp tác của
chủ sở hữu tài sản: một khi nợ được bảo đảm không được trả, thì chủ nợ
nhận thế chấp phải làm động tác yêu cầu chủ sở hữu giao tài sản cho mình
xử lý (Bộ luật Dân sự -BLDS- Điều 351 khoản 5). Nếu chủ sở hữu không
chịu giao, mà điều này lại thường xảy trong thực tiễn, thì chủ nợ chỉ
còn mỗi cách ứng xử phù hợp với pháp luật là gõ cửa toà án để yêu cầu
cưỡng chế theo thủ tục chung về tố tụng dân sự, chứ không có cách nào
khác.
Trong
trường hợp bảo đảm nghĩa vụ bằng cầm cố tài sản, thì luật thừa nhận cho
chủ nợ nhận cầm cố một số quyền có thể khiến người ta liên tưởng đến
người có vật quyền trong luật latinh[1].
Chẳng hạn, nếu nợ không được trả, thì chủ nợ nhận cầm cố có quyền yêu
cầu xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thoả thuận hoặc theo quy
định của pháp luật (BLDS Điều 333 khoản 2), nghĩa là không cần đến vai
trò của chủ sở hữu. Tuy nhiên, sự thừa nhận đó không hề có nghĩa rằng,
chủ nợ nhận cầm cố có quyền năng tác động trực tiếp lên vật như người có
vật quyền. Đơn giản, trong tình huống đặc thù, chủ nợ đang nắm giữ,
kiểm soát tài sản về phương diện vật chất và việc nắm giữ đó là hợp
pháp, được nhà chức trách bảo vệ. Tình trạng đó làm hình thành lợi thế
tự nhiên của chủ nợ trong mối quan hệ với chủ sở hữu tài sản trong việc
xử lý tài sản bảo đảm để thực hiện việc thu hồi nợ. Người làm luật, về
phần mình, chỉ làm mỗi việc là trao cho chủ nợ một số quyền để phát huy
lợi thế tự nhiên đó, nhằm giải quyết vấn đề thu hồi nợ theo cách giản đơn và ít tốn kém nhất.
Thực
ra, người làm luật Việt Nam không thể bị trách móc chỉ với mỗi lý do là
không chịu vận dụng các lý thuyết vật quyền và trái quyền của luật
phương Tây một cách hợp lý để xây dựng hệ thống luật pháp của mình. Nếu
nếu quá trình độc lập tìm kiếm mô hình thích hợp cho Việt Nam dẫn đến
việc thiết lập một khung pháp lý chặt chẽ với các giải pháp hợp lý và
thoả đáng, phát huy được tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy giao lưu
dân sự, thì thậm chí người làm luật còn phải nhận được những lời khen
tặng và sự tôn vinh xứng đáng.
Đáng
tiếc là sự loay hoay trên một nền tảng học thuyết pháp lý không vững
chắc rốt cuộc chỉ cho ra những chế định rối rắm với nhiều giải pháp kỳ
lạ, khiến cho luật nhiều khi trở nên phản tác dụng về phương diện thực
hiện chức năng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển giao lưu minh
bạch và sòng phẳng trong cuộc sống dân sự.
2. Các vấn đề nổi cộm
Các
vấn đề rắc rối đáng chú ý nhất xoay quanh chế định thế chấp tài sản. Lý
do chính là tài sản thế chấp được dùng để bảo đảm việc trả nợ, nhưng
vẫn nằm trong tay người thế chấp (đồng thời là chủ sở hữu). Một cách tự
nhiên, chủ nợ lo lắng về việc tài sản có thể bị sử dụng dẫn đến suy giảm
giá trị, có thể đem thế chấp tiếp cho người khác dẫn đến xung đột quyền
lợi giữa các chủ nợ có bảo đảm, thậm chí được chuyển nhượng cho người
khác và người được chuyển nhượng không biết gì về việc tài sản được đem
thế chấp, rồi gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện quyền đòi nợ sau
này.
Quyền lực của chủ nợ nhận thế chấp có vật quyền.
Trong các hệ thống pháp lý có xây dựng chế định vật quyền, vấn đề được
giải quyết bằng cách thừa nhận cho chủ nợ có bảo đảm đầy đủ các quyền
năng của một người có vật quyền đối với tài sản thế chấp[2].
Đặc biệt, với quyền đeo đuổi, chủ nợ có thể thực hiện quyền của chủ nợ
có bảo đảm ở thời điểm thích hợp, bao gồm, tiến hành kê biên và bán tài
sản, bất kể lúc đó tài sản đang nằm trong tay ai và thuộc về ai. Tất cả
mọi người, kể cả chủ sở hữu, người quản lý, người chiếm hữu tài sản, đều
phải tôn trọng các quyền đó của chủ nợ có bảo đảm. Với quyền ưu tiên,
chủ nợ có quyền bảo đảm được xác lập trước là sẽ được phép lấy trước
tiền trả nợ từ tiền bán tài sản, chủ nợ có quyền bảo đảm được xác lập
sau phải chấp nhận lấy sau từ những gì còn lại trong giá bán tài sản.
Tất
nhiên, để quyền của chủ nợ có bảo đảm được bảo vệ tốt, thì điều kiện
tiên quyết là quyền đó phải được xã hội nhận biết. Luật các nước đặt ra
chế định đăng ký để tổ chức việc công bố và xếp thứ tự ưu tiên đối với
các chủ nợ có bảo đảm[3]. Chế định đăng ký có đối tượng là tất cả các vật quyền chứ không chỉ quyền của các chủ nợ có bảo đảm bằng thế chấp tài sản.
Chủ nợ nhận thế chấp không có vật quyền: người canh giữ tài sản đơn thuần.
Trong điều kiện thiếu vắng lý thuyết vật quyền, chủ nợ luôn phải ở
trong tình trạng cảnh giác đối với hành vi của chủ sở hữu tác động lên
tài sản. Người làm luật, về phần mình, xây dựng các biện pháp bảo vệ hơi
“thủ công” dành cho chủ nợ có bảo đảm, chủ yếu mang ý nghĩa hỗ trợ cho
chủ nợ trong việc giám sát hành vi của chủ sở hữu tài sản liên quan.
Chẳng
hạn, bằng việc thế chấp, chủ sở hữu không còn được thừa nhận có quyền
tự do định đoạt đối với tài sản. Trên nguyên tắc, việc định đoạt theo ý
chí của chủ sở hữu thậm chí bị cấm (BLDS Điều 348 khoản 4) và hành vi
chuyển nhượng bi coi là trái pháp luật[4].
Trong chừng mực nào đó, có thể thừa nhận rằng việc thế chấp tài sản
trong luật hiện hành có tác dụng “treo” quyền định đoạt của chủ sở hữu
cho đến khi biện pháp thế chấp được dỡ bỏ đúng luật. Luật cũng nói rằng,
chỉ có chủ nợ nhận thế chấp mới có quyền giải toả lệnh treo đó trong
thời gian thế chấp. Trong
trường hợp thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ cùng
một lúc, thì theo luật Việt Nam hiện hành, chủ sở hữu tài sản có trách
nhiệm thông báo cho các chủ nợ sau của mình về tình hình thiết lập các
biện pháp bảo đảm trước đó (Điều 324 khoản 2). Trong khi đó, ở các nước
tiền tiến, người ta dựa vào hệ thống đăng ký: việc đăng ký tự nó có tác
dụng thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản cho người thứ ba, nói
chung cho toàn xã hội. Thay vì ràng buộc người bảo đảm vào nghĩa vụ
thông báo, luật đòi hỏi chủ nợ phải tự tìm hiểu bằng cách tiếp xúc với
cơ quan đăng ký để yêu cầu cung cấp thông tin. Trên cơ sở xử lý các
thông tin được cung cấp, chủ nợ có thể tự đánh giá được các khả năng thu
hồi nợ từ tài sản liên quan, từ đó, có thể quyết định chấp nhận hay
không việc xác lập biện pháp bảo đảm bằng tài sản ấy.
Luật
Việt Nam hiện hành không chỉ đòi hỏi người bảo đảm phải thông báo cho
chủ nợ có bảo đảm về tình trạng pháp lý của tài sản. Sự đòi hỏi đó còn
được hình dung, trong trường hợp thế chấp tài sản, như một nghĩa vụ quan
trọng mà nếu người bảo đảm không làm trọn, thì chủ nợ có bảo đảm có
quyền huỷ hợp đồng thế chấp và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 348
khoản 2). Nói khác đi, việc không thông báo bị coi như một hành vi gian
dối, bất chính; người thực hiện hành vi đương nhiên có lỗi và phải chịu
trách nhiệm dân sự.
Trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm nhiều nghĩa vụ.
Một điểm bất hợp lý đặc biệt nữa liên quan đến việc dùng một tài sản để
bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ: theo BLDS Điều 324 khoản 1, một tài sản có
thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu có giá trị
tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị của các
nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật
có quy định khác.
Có
thể hiễu nỗi lo của người làm luật: bảo đảm quá nhiều nghĩa vụ có giá
trị lớn, thì tài sản có nguy cơ không đủ sức để “gồng gánh” tất cả. Suy
cho cùng, nỗi lo ấy rất bình thường; nhưng điều không bình thường là nó
xuất hiện ở người làm luật chứ không phải ở chủ nợ.
Nói
khác đi, khi xác lập một quan hệ nghĩa vụ, thì chính trái chủ (chủ nợ)
là người phải đặt và giải quyết các vấn đề liệu nghĩa vụ có cần được bảo
đảm hay không và nếu cần thì bảo đảm đến mức độ nào. Nợ tư nhân là
chuyện riêng của tư nhân, Nhà nước không cần và cũng không nên can thiệp
vào, đặc biệt là không nên can thiệp theo kiểu làm cho một bên mạnh hơn
và bên kia yếu hơn trong quan hệ tay đôi.
Trong
điều kiện các biện pháp bảo đảm có tác dụng nhân tạo ra các vật quyền
như trong luật của nhiều nước, người làm luật cũng thừa nhận khả năng
dùng một tài sản để bảo đảm nhiều nghĩa vụ cùng một lúc. Mối quan hệ
giữa giá trị của tài sản và tổng giá trị của các món nợ vẫn được chú ý
đến, nhưng người làm luật chỉ quan tâm đến việc làm thế nào tổ chức hành
vi ứng xử của các chủ thể theo các tiêu chí trật tự và công bằng, chứ
không tìm cách hạn chế quyền tự do của người này, người kia để phòng
ngừa rủi ro.
Trên
nguyên tắc, tất cả các vật quyền thế chấp đều phải đăng ký mới có hiệu
lực đối với người thứ ba. Một khi được đăng ký, các vật quyền được thừa
nhận với đầy đủ đặc tính, bao gồm quyền ưu tiên và quyền theo đuổi.
Trong điều kiện nhiều vật quyền cùng tồn tại và có đối tượng là cùng một
vật, tự nhiên hình thành thế cạnh tranh, thậm chí xung đột giữa các vật
quyền. Luật giải quyết vấn đề bằng cách dựa vào hệ thống đăng ký: vật
quyền đăng ký trước được ưu tiên thực hiện so với vật quyền đăng ký sau.
Về
mặt lý thuyết, ngay cả trong trường hợp tổng số nợ được bảo đảm lớn hơn
giá trị của tài sản, thì cũng không hẳn vật quyền đăng ký sau cùng
không còn cơ may được thực hiện trọn vẹn bằng giá trị của tài sản bảo
đảm. Không loại trừ khả năng chủ nợ có bảo đảm được đăng ký trước thu
hồi được nợ do người mắc nợ chủ động trả nợ mà không cần phải xử lý tài
sản bảo đảm. Khi đó, biện pháp bảo đảm liên quan cũng chấm dứt và được
xoá đăng ký; các biện pháp bảo đảm đăng ký sau tự động được nâng hạng ưu
tiên và khả năng thu hồi nợ dựa vào tài sản bảo đảm cũng được nâng lên.
Chính khả năng đó là lý do khiến chủ nợ chấp nhận xác lập biện pháp bảo
đảm, dù biết rằng giá trị của các món nợ có bảo đảm đã vượt quá giá trị
thị trường của tài sản.
Do
thiếu vắng lý thuyết vật quyền, luật Việt Nam hiện hành đã không mở ra
được cơ hội giao dịch cho các bên theo phương thức như trên. Thay vào đó
là sự kiểm soát chủ động của nhà chức trách bằng những quy định mang
tính khống chế, bao biện và giám hộ, như đã nói. Tất cả những điều đó
càng trở nên đáng tiếc trong điều kiện Việt Nam đã xây dựng được hệ
thống đăng ký tương đối hoàn chỉnh cho phép ghi nhận các biện pháp bảo
đảm bằng tài sản đặc định./.
[1] Về lý thuyết vật quyền: xem, cùng tác giả, Lợi ích của việc xây dựng chế định vật quyền đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật tài sản, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp (NCLP) số 2+3 (187+188), tháng 01+02 (2011),
tr. 92 - 96. Để có được cái nhìn sâu và rộng hơn: xem, chẳng hạn, F.Terré và Ph. Simler, Droit civil. Les biens, Précis Dalloz (Paris – Pháp), 2006, tr. 30 đến 36.
[3] Về đăng ký bất động sản: cùng tác giả, Đăng ký bất động sản, các vấn đề lý luận và thực tiễn,
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 6(214), tháng 3/2012), tr.48 đến 53. Để
tham khảo kinh nghiệm của các nước: Ph. Malaurie et L. Aynès, Droit civil - Les biens. La publicité foncière, Cujas (Paris – Pháp), 1998, tr.367 đến 385; J. Gray, Brendan Edgeworth, Nell Foster, Scott Grattan, Property Law in New South Wales, Lexis Nexis Butterworths (Australia), 2007, tr. 282 đến 351.
[4]
Ở góc độ pháp luật hình sự, việc chuyển nhượng tài sản thế chấp còn bị
ghi nhận là hành vi tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa
vụ trả nợ mang tính chất lừa đảo và người chuyển nhượng có thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo tội danh tương ứng. Trên thực tế đã có
nhiều người bị vướng vào vòng lao lý do hành vi này.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét